24. Học Hỏi Để Sống Đạo

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - LỄ THÁNH GIA

Xây dựng một gia đình hạnh phúc

HIỆP SỐNG TIN MỪNG

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO

CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA A

Hc 3,3-7.14-17a ; Cl 3,12-21 ; Mt 2,13-15.19-23

 

  1. HỌC LỜI CHÚA
  2. TIN MỪNG: Mt 2,13-15.19-23

(13) Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, thì kìa sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giu-se rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài Nhi đấy !”. (14) Ông Giu-se liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập. (15) Ông ở đó cho đến khi Hê-rô-đê băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: “Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập”.(19) Sau khi vua Hê-rô-đê băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giu-se bên Ai-cập, (20) báo mộng cho ông rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en, vì chưng kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi. (21) Ông liền trỗi dậy, đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en. Nhưng vì nghe biết Ác-khê-lao đã kế vị vua cha là Hê-rô-đê, nên ông sợ không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Ga-li-lê, (23) và đến ở tại một thành kia gọi là Na-da-rét, để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng các ngôn sứ rằng: “Người sẽ được gọi là người Na-da-rét”.

  1. Ý CHÍNH: XUẤT HÀNH TỪ AI CẬP.

Tin Mừng hôm nay muốn nói lên tư tưởng Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế đã được Thiên Chúa bảo vệ khỏi bàn tay độc ác của bạo vương Hê-rô-đê. Người là Mô-sê Mới, dẫn đầu dân Ít-ra-en Mới, xuất hành ra khỏi Ai Cập trần gian để về miền Đất Hứa là thiên đàng đời sau.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 13-14: + Sứ thần Chúa hiện ra: Tin Mừng Mát-thêu ghi lại 4 lần sứ thần Chúa hiện ra với ông Giu-se (Mt 1,20; 2,13; 2,19; 2,22). + Báo mộng cho ông Giu-se: Sứ thần Chúa hiện đến cùng Giu-se trong giấc mộng và thay mặt Thiên Chúa ra lệnh cho Giu-se phải làm theo. + Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập: Lệnh truyền này nói lên sự can thiệp của Thiên Chúa để bảo vệ Hài Nhi Cứu Thế. Ai Cập là một nước lớn nằm sát bên nước Do thái về phía Nam, và là nơi những người Do thái bị ruồng bắt thường tìm đến lánh nạn (x. 1V 11,40). Đi từ Bê-lem tới Ai Cập mất khoảng 5-6 ngày đường. + Vì Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài Nhi đấy: Hài Nhi Giê-su được đem sang Ai Cập để trốn khỏi sự khủng bố của vua Hê-rô-đê độc ác, giống như Mô-sê ngày xưa cũng phải trốn khỏi sự ruồng bắt của Pha-ra-ô nước Ai-cập (x. Xh 2,15). + Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai Cập”: Câu này rút ra từ sách ngôn sứ Hô-sê (x. Hs 11,1), nói về cuộc Xuất hành của dân Ít-ra-en xưa. Khi đó dân Ít-ra-en đã được Đức Chúa gọi là “con Ta” (x. Xh 4,22).

– C 19-20: + Thánh gia trốn sang Ai-cập trong thời gian bao lâu: Khoảng từ vài tháng tới 3 năm. Giả sử thánh gia được triệu về ngay sau khi Ác-khê-la-ô lên kế vị (năm 750 tức khoảng năm thứ 4 đến thứ 6 sau Công Nguyên), thì thời gian ở bên Ai-cập của Thánh Gia không thể quá 3 hay 4 năm được. + Công Nguyên là gì: Công Nguyên hay Kỷ Nguyên Chung được tính bắt đầu từ năm Chúa Giáng Sinh. + Sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giu-se bên Ai-cập: Khi vua Hê-rô-đê Cả chết, ông Giu-se lại được sứ thần Chúa hiện đến trong giấc mơ ra lệnh cho ông mau đem Hài Nhi và mẹ Người trở về quê hương, vì mối nguy đã chấm dứt với cái chết của vua Hê-rô-đê. + Vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi: Câu này chính là lời Đức Chúa báo cho Mô-sê về cái chết của Pha-ra-ô Ai-cập (x. Xh 4,19). Đây là một bằng chứng cho thấy Mát-thêu muốn ám chỉ Hài Nhi chính là Mô-sê của thời Tân Ước.

– C 23: + Và đến ở tại một thành kia gọi là Na-da-rét: Thánh Gia về cư ngụ ở Na-da-rét là ứng nghiệm lời sấm đã phán qua miệng các ngôn sứ rằng: “Người sẽ được gọi là người Na-da-rét”. Ta có thể hiểu rằng Mát-thêu dùng danh xưng này để ám chỉ việc tự hạ của Đấng Cứu Thế. Nói Đấng Cứu Thế là người Na-da-rét cũng giống như nói Người đã bị người đời miệt thị khinh dể vậy.

  1. CÂU HỎI:

1) Tại sao Giu-se phải đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-Cập ? 2) Thánh Gia trốn sang Ai Cập đến khi nào về ? 3) Tại sao Giu-se lại đem Hài Nhi đến ở thành Na-da-rét ?

  1. SỐNG LỜI CHÚA
  2. LỜI CHÚA: Ông Giu-se liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập (14):
  3. CÂU CHUYỆN:

1) MẸ CHUYỂN NHÀ ĐỂ DẠY CON NÊN NGƯỜI:

Khi Mạnh Tử còn bé, tóc để hình trái đào, mặt mũi khôi ngô, tính ham học hỏi thắc mắc và bắt chước người khác. Mẹ của Mạnh Tử rất thương yêu con, mong cho con học hành giỏi giang, trở thành hiền tài, nên bà luôn tìm phương cách dạy dỗ con tốt nhất.

Bấy giờ, nhà Mạnh Tử ở gần một nghĩa địa. Ngày nào trong nghĩa địa cũng có các đám tang chôn cất người chết. Trong đám tang, Có người thì khóc thương thảm thiết, người khác đào huyệt rồi cùng nhau chôn quan tài xuống huyệt và lấp đất làm thành ngôi mộ. Bọn trẻ con gần đó rủ nhau đi xem đám ma, rồi bắt chước người lớn chơi trò đưa đám. Chúng chia nhau ra: Em đóng vai người chôn cất, em khác thì đội khăn tang theo sau quan tài khóc lóc thảm thiết. Một hôm, mẹ Mạnh Tử đang ngồi dệt vải, nghe thấy tiếng trẻ con gào khóc gần nhà và xen lẫn tiếng người hô hoán khác lạ. Bà liền rời khung cửi ra ngõ xem điều gì xảy ra và bà giật mình khi thấy bọn trẻ đang chới trò đám tang giả. Bà thấy Mạnh Tử nhà bà cũng đang bắt chước người lớn đào huyệt, chôn xác, rồi cũng có lúc giả bộ lăn lộn trên đất giống như người nhà trong các đám tang mà chúng vẫn xem. Bà mẹ lo lắng tự nhủ: “Con ta thơ dại mà lại chơi trò đào, chôn, lăn, khóc như thế này tâm trí ắt sẽ bị ảnh hưởng, còn tâm trí đâu mà học hành nữa”. Rồi bà liền quyết định dọn nhà sang ở nơi khác, để thay đổi môi trường sống cho con. Lần này Mạnh Tử ở gần khu chợ sầm uất. Hằng ngày Mạnh Tử bắt chước người lớn ăn nói chua ngoa tục tĩu và chơi trò mua bán gian xảo. Bà mẹ Mạnh Tử một lần nữa lại dời nhà đến ở gần trường học. Tại đây bà thấy con trai học theo các học trò chăm chỉ đến lớp nghe lời thầy giáo dạy dỗ. Bà liền quyết định ở hẳn lại nơi này để Mạnh Tử con bà có điều kiện học hành chăm chỉ. Về sau Mạnh Tử đã thi đỗ và trở thành người tài đức giúp ích cho đời.

2) TẦM QUAN TRỌNG CỦA GIỜ KINH TỐI GIA ĐÌNH:

Một cha xứ kia đi thăm các gia đình trong xứ để kiểm tra nhân danh. Gặp một đôi vợ chồng không đọc kinh tối gia đình, cha hỏi: “Gia đình ông bà có đọc kinh chung gia đình không ?”. Họ trả lời vì không có thời giờ do con cái phải đi học thêm hay phải đi làm theo ca. Gia đình ông ta phải kiếm sống trước đã như câu “Có thực mới vực được đạo !” Bấy giờ cha xứ lại hỏi: “Nếu ông bà biết rõ là nhờ đọc kinh tối hàng ngày mà một đứa con sẽ tránh được một cơn bệnh hiểm nghèo, tránh được một tai nạn; Nhờ đọc kinh tối mà chúng mới có công ăn việc làm đều, chúng mới có đủ sáng suốt để làm được bài thi ở trường; Nhờ đọc kinh mà các linh hồn tiên nhân ông bà cha mẹ và những người thân đã chết sẽ sớm được về thiên đàng… thì ông bà có tổ chức đọc kinh gia đình hàng ngày không ?” Họ trả lời rằng: “Có thể chúng con sẽ đọc”. Cha xứ lại hỏi: “Giả như gia đình làm ăn thất bại phải mang nợ tới 100 triệu đồng, khó lòng có thể trả được cả vốn lẫn lãi, mà nếu ngày nào có đọc kinh tối gia đình 15 phút, thì sẽ được chủ nợ trừ bớt số lời 100.000 đồng, thì ông bà có đọc kinh tối chung không ?”. Bấy giờ ông kia hỏi lại: “Thưa cha, cha hỏi như vậy để làm gì ?” Bấy giờ cha xứ mới ôn tồn trả lời: “Tôi nói như vậy để cho thấy nguyên nhân gia đình ông bà không đọc kinh tối, không phải vì không có thời giờ hay vì bận làm việc, mà lý do chính là vì nghĩ rằng đọc kinh tối gia đình là điều không cần thiết, chỉ cần đi lễ nhà thờ là đủ. Tôi hỏi vậy để cho thấy việc đọc kinh cũng quan trọng không kém gì việc giữ gìn sức khỏe và sự an toàn của các người thân trong gia đình, cũng có giá trị như một số tiền thiêng liêng, giúp bớt phần phạt cho người thân là tiên nhân ông bà đã qua đời, và giá trị của việc đọc kinh cũng có thể tương đương với số tiền cần chi dùng hàng ngày”.

  1. SUY NIỆM:

1) THÁNH GIU-SE – GƯƠNG MẪU CỦA GIA TRƯỞNG:

– Mau mắn tuân giữ lời Chúa: Giu-se đã thi hành ba lệnh truyền của Chúa: Một là rước Ma-ri-a đang có thai về nhà làm vợ mình; Hai là tôn trọng lời khấn của Ma-ri-a dâng hiến toàn thân phụng sự Chúa bằng việc không ăn ở với bà. Ba là đặt tên cho con trẻ là Giê-su để nhận mình làm cha của Hài Nhi về luật pháp (x. Mt 1,24-25).

– Quyết tâm bảo vệ Hài Nhi: Khi vừa được mộng báo, Giu-se đã lập tức trỗi dậy mang Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập ngay lúc đêm khuya và đến khi vua Hê-rô-đê băng hà, ông lại vâng lời sứ thần trỗi dậy mang Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en. Ông cũng khôn ngoan phòng tránh cho Hài Nhi khỏi bị nguy hiểm: Khi về tới Be-lem, nghe tin Ác-khê-lao đã lên kế vị vua Hê-rô-đê cai trị miền Giu-đê cũng độc ác nên ông đã lui về miền Ga-li-lê đến sống tại thành Na-da-rét.

– Tín thác vào Chúa quan phòng: Tín thác là dấu chỉ của một đức tin chân chính. Thánh Giu-se luôn lắng nghe Lời Chúa và mau mắn vâng theo với sự tín thác hoàn toàn vào quyền năng và tình thương của Thiên Chúa quan phòng.

2) ĐIỀU KIỆN ĐỂ XÂY DỰNG HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH:

– Sống đúng vai trò của mình: Một tờ báo ở Luân-đôn nước Anh đã mở một cuộc điều tra các ông chồng, yêu cầu họ thành thật trả lời câu hỏi: “Trong gia đình bạn, ai là người thực sự có quyền làm chủ ?” Kết quả cho có 80% câu trả lời: “Vợ tôi làm chủ”, 20% trả lời “Mẹ vợ tôi làm chủ”. Chỉ có một số ít trả lời: “Chính tôi làm chủ, vì vợ tôi đã qua đời !” Như vậy, không lạ gì Anh quốc là nước số gia đình ly hôn chiếm tỷ lệ cao nhất: Mỗi năm cứ hai đám cưới thì có một đám ly hôn.

– Tránh thái độ gia trưởng độc đoán: Vợ chồng cần trao đổi để nên một lòng một ý trong cách ứng xử với tha nhân, nuôi dạy con cái, mua sắm đồ dùng, và trong công việc làm ăn sinh sống. Vì “Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn”, và “Phu phụ hòa, gia đạo thịnh”.

– Gia đình phải có Chúa hiện diện: Thực vậy, nếu gia đình thực sự có đức tin, có lòng đạo đức, thì sẽ thương yêu và nhường nhịn lẫn nhau. Chồng thương yêu vợ, vợ yêu thương chồng, con cái thảo kính cha mẹ và anh chị em trong nhà thương yêu nhường nhịn nhau. Trong đời sống vợ chồng, chắc chắn sẽ có lúc vui lúc buồn, khi thành công lúc thất bại, và nhiều khi còn phải vác thánh giá là bệnh tật và các thói hư của nhau và phải vác đến chết để đền tội.

– Vợ chồng hãy chịu đựng lẫn nhau và tha thứ cho nhau: Trong một buổi tĩnh tâm dành cho gia trưởng, nhưng cũng có nhiều bà vợ tham dự. Tới phần làm phép Thánh giá, cha giảng phòng nói: “Ai có cây Thánh giá xin đem lên gần gian cung thánh để được làm phép. Bấy giờ một ông lão thay vì mang cây Thánh giá thì lại cõng bà vợ bị tê liệt lên. Tới lúc cha đến trước từng người đang cầm cây thánh giá để rấy nước thánh. Thay vì giơ cây Thánh giá lên cho cha làm phép thì ông lại cố bồng bà cụ lên trước sự ngạc nhiên của mọi người. Ông nói: “Thưa cha, đây là cây thánh giá của con. Xin cha làm phép để con được vác thánh giá này cho đến cùng !” Qua lời nói của ông cụ, chúng ta hiểu người bạn đời chính là thánh giá sống động mà chúng ta phải mang từ khi lấy nhau cho đến hết. Vợ là thánh giá của chống và chồng là thánh giá của vợ. Ai cùng Chúa Giê-su trung thành vác thánh giá ấy cho đến cùng, thì sau này sẽ được sống lại với Chúa Giê-su và cùng được hưởng vinh quang Nước Trời với Người.

– Vợ chồng cùng nhau nhìn về một hướng là nuôi dạy con cái nên người: Cần ý thức con cái chính là tài sản quý giá nhất của cha mẹ, là tương lai của cha mẹ sau này, nên vợ chồng phải hy sinh mọi sự như thời giờ, tiền bạc, công việc… để lo cho con cái được sống trong bầu khí hạnh phúc và môi trường sống an toàn. Câu chuyện mẹ thày Mạnh Tử sẵn sàng dời nhà từ nghĩa trang đến gần trường học để tránh cho con khỏi bị lây nhiễm các thói hư và chăm chỉ học tập trở thành người tài đức giúp ích cho đời, là gương mẫu cho các cha mẹ hôm nay.

3) CHA MẸ CẦN LÀM GÌ ĐỂ GIÁO DỤC CON CÁI? 

Từ thời mở cửa, gia đình Việt Nam đã có sự chuyển biến theo chiều hướng tiêu cực. Số cặp vợ chồng ly hôn ngày một gia tăng. Con cái không còn vâng lời cha mẹ như xưa. Nhiều gia đình tuy công việc làm ăn kinh tế có khá hơn, nhưng con cái lại bỏ bê việc học hành và sa đà vào các thói hư như : ăn chơi sa đọa, bị lôi cuốn vào các tệ nạn xã hội như sì-ke ma túy, cướp bóc, quậy phá… làm cho cha mẹ xấu hổ và gia đình tan nát ly tán. Để bảo vệ hạnh phúc gia đình, các bậc cha mẹ hãy học tập noi gương Thánh Gia là thánh cả Giu-se và Thánh Mẫu Ma-ri-a.

 – Quan tâm chăm sóc dạy dỗ con cái: Cha mẹ không phải chỉ quan tâm đến con bằng việc cho chúng tiền bạc tiêu xài, mà quan trọng hơn là cho con tình thương, sự chăm sóc dạy dỗ ngay từ khi chúng còn nhỏ dại, và cảm thông động viên khi chúng trưởng thành. Nên nhớ rằng : Dù cha mẹ có thành công trong việc làm ăn kinh tế hay thăng quan tiến chức xã hội, mà để con cái mình sa đà vào thói hư như hút sách bài bạc… thì sự thành công kia trở thành thất bại gây cho cha mẹ nhiều nỗi ân hận đau khổ nhất. Vì thế, cha mẹ cần bảo vệ con cái mình khỏi tác hại của sách báo phim ảnh xấu trên các trang mạng internet, khỏi các bạn bè xấu… Nếu cần cha mẹ hãy đem con cách ly khỏi nanh vuốt của Hê-rô-đê gian ác của thời nay để đưa con yên tâm học tập và trở thành những người trưởng thành hữu dụng sau này.

– Phải dạy cho con cái hiếu thảo với cha mẹ và biết lễ độ với người trên: Muốn việc giáo dục thành công, chính cha mẹ phải được huấn luyện các đức tính nhân bản trước rồi mới biết đường dạy dỗ con cái. Cần dạy con bằng gương sáng của cha mẹ hơn là lời nói suông: Cần nói năng trung thực, khiêm tốn phục vụ và biết giữ chữ tín khi giao tiếp với tha nhân.

– Gia Đình cần học sống Lời Chúa : Cha mẹ cần tạo thói quen lắng nghe và thực hành Lời Chúa trong giờ kinh tối gia đình, bằng việc phân công cho con cái mở Kinh Thánh để đọc Lời Chúa, rồi cầu nguyện để quyết tâm sống theo Lời Chúa dạy hằng ngày.

  1. THẢO LUẬN:

1) Các gia trưởng và hiền mẫu Công giáo cần học tập những gì nơi thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a để gia đình được hạnh phúc ? 2) Nguyên nhân làm cho các gia đình đổ vỡ ly hôn là gì ? Khi xảy ra ly hôn thì trong hai vợ chồng ai là người có lỗi hơn ? 3) Bạn có đồng ý với câu: “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà” không ? Tại sao ?

  1. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin ban cho các gia đình tín hữu chúng con biết luôn “trên thuận dưới hòa”, “một lòng một ý”. Xin giúp các đôi vợ chồng trẻ biết cách duy trì được tình yêu ban đầu. Xin cho họ biết “cho nhiều hơn nhận”, biết “ân cần phục vụ” cho nhau, biết “quảng đại tha thứ và nín nhịn các sự yếu đuối lỗi lầm” của nhau. Biết “nói ít làm nhiều”, và “sẵn sàng vác thánh giá” là chịu đựng người bạn đời của mình”… Nhờ đó các gia đình chúng con hy vọng sẽ trở thành một thiên đàng trần gian, là dấu chỉ chúng con sẽ được hưởng hạnh phúc thiên đàng vĩnh cửu sau này.

  1. X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

LM ĐAN VINH –  HHTM

Chia sẻ Bài này:
 

Related posts

 
 

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - BÀI GIÁO LÝ VỀ SACH TĐCV

  •  
    Tinh Cao
    Dec 4 at 6:59 PM
     
     

    ĐTC Phanxicô

     

     Giáo Lý về Sách Tông Vụ - Bài 17

     

    Thứ Tư ngày 4/12/2019

     

     

    Epheso: đức tin phi ma thuật - Miletus: lời từ biệt di chúc

     

    2019.12.04 Udienza Generale

     

    Quyền năng của Thiên Chúa, tỏ hiện ở Epheso, đã lột mặt nạ những ai muốn sử dụng tên Chúa Giêsu để trừ quỉ,

    nhưng không có thẩm quyền thiêng liêng để làm như thế (cf Acts 19:13-17),

    và cho thấy cái yếu kém của những thứ ma thuật,

    những gì bị loại trừ bởi đa số những người chọn Chúa Kitô và từ bỏ các thứ ma thuật (cf. Acts 119:1819).

     

    Pope Francis in St. Peter's Square Dec. 4, 2019. Credit: Daniel Ibáñez/CNA.

     

    Đức tin là việc tin tưởng phó mình trong bàn tay của một Vị Thiên Chúa khả tín,

    Đấng làm cho Bản Thân Mình không được biết đến bởi những thứ thực hành huyền bí

    mà bởi mạc khải cùng với tình yêu thương nhưng không.

     

     

    "Anh em hãy lưu ý tới bản thân mình cũng như đến tất cả đàn chiên".

    Đó là công việc của một vị Mục Tử: ở chỗ tỉnh thức, canh chừng bản thân mình cũng như đàn chiên...

    Các Vị Giám Mục cần phải rất gần gũi với dân chúng, để bênh vực họ; các vị không được tách lìa khỏi dân chúng.

     

     

     

    Xin chào anh chị em thân mến!

     

    Cuộc hành trình của Phúc Âm không ngừng tiếp tục trong Sách Tông Vụ, và Phúc Âm này đã băng ngang qua thành Epheso để biểu lộ tất cả những mục tiêu cứu độ của mình. Nhờ Thánh Phaolô mà đã có chừng 12 người lãnh nhận Phép Rửa nhân danh Chúa Giêsu và cảm nghiệm thấy sự thông ban của Thánh Thần là Đấng tái sinh họ (cf. Acts 19:1-7). Thế rồi sau đó đã xẩy ra một số phép lạ qua vị Tông Đồ này: bệnh nhân được khỏi và kẻ bị ám được giải thoát (cf Acts 19:11-12). Điều này xẩy ra là vì vị môn đệ ấy giống như Thày của ngài (cf Lk 6:40) và giúp Người hiện diện bằng việc thông đạt cho anh em mình cùng một sự sống mới ngài đã lãnh nhận từ Người.

     

    Quyền năng của Thiên Chúa, tỏ hiện ở Epheso, đã lột mặt nạ những ai muốn sử dụng tên Chúa Giêsu để trừ quỉ, nhưng không có thẩm quyền thiêng liêng để làm như thế (cf Acts 19:13-17), và cho thấy cái yếu kém của những thứ ma thuật, những gì bị loại trừ bởi đa số những người chọn Chúa Kitô và từ bỏ các thứ ma thuật (cf. Acts 119:1819). Một cuộc đảo ngược thực sự đối với một thành phố như Epheso, một thành phố là trung tâm nổi tiếng về việc thực hành ma thuật! Bởi vậy mà Thánh Luca đã nhấn mạnh đến tính cách bất tương hợp giữa niềm tin vào Chúa Kitô và ma thuật. Nếu anh chị em chọn Chúa Kitô thì anh chị em không thể tìm kiếm một ma thuật viên nào: đức tin là việc tin tưởng phó mình trong bàn tay của một Vị Thiên Chúa khả tín, Đấng làm cho Bản Thân Mình không được biết đến bởi những thứ thực hành huyền bí mà bởi mạc khải cùng với tình yêu thương nhưng không. Có lẽ một số anh chị em sẽ nói với tôi rằng: "Đúng thế, thứ ma thuật này là một điều cổ hủ rồi: ngày nay điều ấy không còn xẩy ra ở nền văn minh Kitô giáo nữa". Thế nhưng, hãy cẩn thận nhé! Tôi hỏi anh chị em thế này: có bao nhiêu anh chị em đi xem bói toán, bao nhiêu anh chị em đi xem chỉ tay nơi những tay thày bói hay bài bói. Về vấn đề "Tại sao anh chị em tìm kiếm những tay ma thuật, những tên thày bói, đi tìm kiếm những loại người ấy chứ?" Câu trả lời là: "Tôi tin vào Chúa Giêsu Kitô nhưng tôi vẫn muốn đến với họ để tìm kiếm may lành". Này nhé, ma thuật không phải là Kitô giáo đâu đấy! Những điều được thực hiện để tiên đoán tương lai, hay tiên đoán nhiều điều, hoặc để thay đổi hoàn cảnh của cuộc sống ấy, đều không phải là Kitô giáo. Ân sủng của Chúa Kitô mang lại cho anh chị em tất cả mọi sự: hãy cầu nguyện và phó thác bản thân mình cho Chúa.

     

    Việc lan truyền Phúc Âm ở Epheso làm hư hại đến thương vụ của những người làm thợ bạc - một vấn đề khác nữa -, thành phần thực hiện các tượng nữ thần Artemis và việc tôn sùng nữ thần này (cf. Acts 19:23-28).

     

     Sau đó Thánh Phaolô đã rời Epheso đi thẳng tới Gierusalem và đến Miletus (cf. Acts 20:1-6). Ở đây ngài triệu tập Các Vị Trưởng Lão của Giáo Hội ở Epheso - các vị tư tế: họ sẽ là các vị linh mục - để ủy thác cho họ các thứ gửi gấm về "mục vụ" (cf Acts 20:17-35). Chúng ta đang ở đoạn cuối hành trình thừa tác vụ tông đồ của Thánh Phaolô, và Thánh Luca cống hiến cho chúng ta bài từ biệt của ngài, một thứ di chúc thiêng liêng được vị Tông Đồ này ngỏ cùng những người mà, sau khi ngài ra đi, sẽ cần phải hướng dẫn cộng đồng Epheso. Và đó là một trong những trang tuyệt vời nhất của Sách Tông Vụ: hôm nay tôi khuyên anh chị em hãy mở Tân Ước ra, Thánh Kinh, đoạn 20 và đọc lời từ biệt của Thánh Phaolô với những vị trưởng lão tư tế của thành Epheso - và ngài cũng làm như thế ở Miletus. Đó là cách để hiểu được Vị Tông Đồ này từ biệt ra sao, cũng như các vị tư tế ngày nay cần phải từ biệt như thế nào, và tất cả Kitô hữu cần phải từ biệt làm sao. Nó là một đoạn tuyệt vời nhất.

    Ở phần huấn dụ, Thánh Phaolô phấn khích thành phần lãnh đạo cộng đồng mà ngài biết rằng ngài đang nhìn thấy họ lần cuối cùng. Và ngài đã nói gì với họ? "Anh em hãy lưu ý tới bản thân mình cũng như đến tất cả đàn chiên"Đó là công việc của một vị Mục Tử: ở chỗ tỉnh thức, canh chừng bản thân mình cũng như đàn chiên. Vị Mục Tử cần phải canh chừng, vị linh mục coi xứ cần phải canh chừng, cần phải tỉnh thức, các vị trưởng lão cần phải canh chừng, các vị Giám Mục và Giáo Hoàng cần phải canh chừng. Các vị cần phải canh chừng để gìn giữ đàn chiên, và cũng canh chừng cả bản thân mình nữa, hãy khảo sát lương tâm các vị xem để các vị thầy rằng nhiệm vụ canh chừng này được hoàn trọn. "Anh em hãy ân cần lo cho chính mình và toàn thể đoàn chiên mà Thánh Thần đã đặt anh em làm người coi sóc, hãy chăn dắt Hội Thánh của Thiên Chúa, Hội Thánh Người đã mua bằng máu của chính mình", Thánh Phaolô đã nói như thế. Ngài đã yêu cầu các vị Giám Mục gần gũi bao nhiêu có thể với đàn chiên, thành phần được cứu chuộc bởi giá máu châu báu của Chúa Kitô, và hãy tức thời bênh vực đàn chiên cho khỏi "các con sói" (câu 29). Các Vị Giám Mục cần phải rất gần gũi với dân chúng, để bênh vực họ; các vị không được tách lìa khỏi dân chúng. Sau khi ủy thác công việc này cho thành phần lãnh đạo ở Epheso, Thánh Phaolô trao phó họ cho bàn tay của Chúa và gửi gấm họ "cho lời của ân sủng Người" (câu 32), men làm cho tất cả được tăng trưởng và là đường lối thánh thiện của Giáo Hội, bằng cách mời gọi họ, như ngài, hãy làm việc bằng bàn tay của họ, để không trở thành gánh nặng cho những người khác, hãy giúp đáp những ai yếu kém và hãy cảm nghiệm thấy rằng "trao ban thì hơn là nhận lãnh" (câu 35).

    Anh chị em thân mến, chúng ta xin cùng Chúa hãy canh tân đổi mới trong chúng ta tình yêu đối với Giáo Hội cũng như đối với kho tàng đức tin được Giáo Hội gìn giữ, và hãy làm cho tất cả chúng ta đồng trách nhiệm trong việc gìn giữ đàn chiên, ở chỗ nâng đỡ các vị Mục Tử bằng lời cầu nguyện, nhờ đó các vị thể hiện tính cách vững mạnh và dịu dàng của Vị Mục Tử Thần Linh.

    https://zenit.org/articles/popes-general-audience-on-st-pauls-ministry-in-ephesus/

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch kèm theo nhan đề và các chi tiết nhấn mạnh tự ý bằng mầu  

     ------------------------------

     

     
     

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - ĐTC/ BÀI GIAO LÝ

  •  
    Tinh Cao
    Nov 6 at 2:20 PM
     
     

    ĐTC Phanxicô

     

     Giáo Lý về Sách Tông Vụ - Bài 15

     

    Thứ Tư ngày 6/11/2019

     

     

    "Vị Thần Vô Danh" - Đức Tin Hội Nhập

     

     

     

    "Thánh Phaolô đã đến Nhã Điển, đến chính trung tâm của nước Hy Lạp ...

    Thánh Phaolô không nhìn thành phố Nhã Điển này và thế giới dân ngoại bằng lòng hận thù, mà bằng ánh mắt đức tin".

     

    Pope Francis at the General Audience

     

    "Thánh Phaolô đã chọn cái nhìn có thể thúc đẩy ngài tạo nên một cửa ngõ giữa Phúc Âm và thế giới dân ngoại.

    Ở Nghị Viện ấy, tâm điểm của một trong những cơ cấu danh tiếng nhất của thế giới cổ xưa,

    ngài đã cống hiến một mẫu gương vượt trội về vấn đề hội nhập văn hóa của sứ điệp đức tin"

     

    Pope Francis greets pilgrims in St. Peter's Square Nov. 6, 2019. Credit: Daniel Ibanez/CNA

     

    "Chúng ta hãy xin Thánh Linh cho chúng ta khả năng biết hội nhập văn hóa sứ điệp đức tin một cách khéo léo,

    gợi lên cho những ai chưa biết Đức Kitô một cái nhìn chiêm ngắm,

    được tác động bởi một tình yêu thương sưỡi ấm cả những cõi lòng cứng cỏi lạnh lùng nhất".

     

    Xin chào anh chị em thân mến!

    Chúng ta tiếp tục "cuộc hành trình" của chúng ta theo Sách Tông Vụ. Sau những thử thách trải qua ở Philiphi, Thessalonica và Beroea, Thánh Phaolô đã đến Nhã Điển, đến chính trung tâm của nước Hy Lạp (Cf. Acts 17:15). Thành phố này, một thành phố đã sống trong bóng tối tăm của một thời vinh quang xa xưa, mặc dù có bị suy yếu về chính trị, vẫn đóng vai trò trọng yếu về văn hóa. Ở đây, Vị Tông Đồ "khi thấy thành phố này đầy những ngẫu tượng thì tinh thần của ngài bị sôi động" (17:16). Tuy nhiên, "cái tác dụng" này trước một thế giới ngoại đạo ấy, thay vì khiến ngài bỏ đi, lại thúc đẩy ngài kiến tạo một cây cầu nối đối thoại với nền văn hóa ấy.

    Tông Đồ Phaolô đã muốn làm quen với thành phố này, nên ngài bắt đầu lui tới với những nơi chốn và những con người đáng kể nhất. Ngài đã đến hội đường, tiêu biểu cho đời sống đức tin; ngài đã ra Công trường, tiêu biểu cho đời sống phố phường; và ngài đã đến Nghị Viện, tiêu biểu cho đời sống chình trị và văn hóa. Ngài đã gặp gỡ những người Do Thái, những triết gia phái Epicurean và Stoic, cùng nhiều người khác nữa. Ngài đã gặp tất cả dân chúng, ngài đã không khép kín, ngài đã nói chuyện với tất cả dân chúng. Nhờ đó Thánh Phaolô đã quan sát về văn hóa, ngài đã quan sát môi trường của Thành Nhã Điển, "bắt đầu từ một cái nhìn ngắm nghía" để khám phá thấy rằng "thần linh ở trong nhà của họ, trên đường phố của họ và nơi các Công trường của họ" (Evangelii Gaudium, 71). Thánh Phaolô không nhìn thành phố Nhã Điển này và thế giới dân ngoại bằng lòng hận thù, mà bằng ánh mắt đức tin. Điều này khiến chúng ta tự vấn về cách thức chúng ta nhìn vào các phố phường của chúng ta, ở chỗ chúng ta có quan sát chúng một cách lãnh đạm lạnh lùng, một cách khinh khi miệt thị hay chăng? Hay bằng đức tin, một đức tin nhận biết con cái của Thiên Chúa giữa những đám đông vô danh.

    Thánh Phaolô đã chọn cái nhìn có thể thúc đẩy ngài tạo nên một cửa ngõ giữa Phúc Âm và thế giới dân ngoạiỞ Nghị Viện ấy, tâm điểm của một trong những cơ cấu danh tiếng nhất của thế giới cổ xưa, ngài đã cống hiến một mẫu gương vượt trổi về vấn đề hội nhập văn hóa của sứ điệp đức tin, ở chỗ ngài đã loan báo Chúa Kitô cho những con người tôn thờ ngẫu tượng, không phải bằng cách tấn công họ, mà bằng cách biến ngài trở thành "vị giáo chủ, thành vị xây dựng các chiếc cầu" (Homily at Saint Martha’s, May 8, 2013). Thánh Phaolô sử dụng cái chốt, từ một bàn thờ trong thành phố giành cho "một vị thần vô danh" (17:23) - có một bàn thờ ghi hàng chữ "cho vị thần vô danh" - ngoài ra không có hình ảnh gì hết, chỉ có mỗi câu ghi chú đó thôi. Bắt đầu từ "việc tôn sùng" giành cho vị thần vô danh này, và để thấu cảm với thành phần thính giả của mình, vị tông đồ này đã loan báo rằng Thiên Chúa là Đấng "sống giữa thành phần công dân" (Evangelii Gaudium, 71), và "Ngài không muốn ẩn khuất khỏi những ai đang thành tâm tìm kiếm Ngài, cho dù họ tìm kiếm một cách lần mò" (Ibid). Chính vì sự hiện diện này mà Thánh Phaolô tìm cách tỏ cho biết "những gì quí vị tôn thờ mà không biết thì tôi loan báo cho quí vị đây" (17:23).

    Để tỏ cho thấy căn tính của vị thần được dân thành Nhã Điển tôn thờ này, vị Tông Đồ đã bắt đầu từ việc tạo dựng, tức là từ đức tin thánh kinh vào vị Thiên Chúa mạc khải, đến ơn cứu độ và phán xét, tức là đến chính sứ điệp Kitô giáo. Ngài cho thấy tình chất bất tương xứng giữa cái cao cả của Vị Hóa Công với các chùa chiềng được bàn tay con người làm nên, rồi ngài giải thích rằng Đấng Hóa Công luôn tỏ mình ra để ai cũng có thể thấy Ngài. Bởi vậy, theo một diễn tả tuyệt vời của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI, Thánh Phaolô "loan báo Đấng con người vô thức mà lại biết, đó là Đấng Được Nhận Biết Một Cách Vô Thức / the Unknown-Known" (Benedict XVI, Meeting with the World of Culture at the College of the Bernardines, September 12, 2008). Thế rồi vị tông đồ mời gọi tất cả mọi người hãy vượt ra ngoài "những thời kỳ vô thức", và hãy dứt khoát hoán cải trước phán quyết sắp xẩy ra. Như thế là Thánh Phaolô thực hiện việc loan báo cứu độ và ám chỉ Đức Kitô, dù không đề cập đến Người, bằng việc diễn tả Người như là "một con người được Thiên Chúa chỉ định, và để bảo đảm điều ấy với mọi người, Thiên Chúa đã làm cho vị này sống lại từ cõi chết." (17:31)

    Vấn đề trục trặc là ở chỗ này. Lời của Thánh Phaolô, cho tới lúc bấy giờ vẫn còn làm cho thính giả của ngài dễ thở - bởi đó là một khám phá hay ho đối với họ -, đã đụng phải một tảng đá vấp phạm, đó là Cái Chết và Sự Phục Sinh của Đức Kitô dường như là những gì "nực cười" (1 Corinthians 23), và đã khơi lên niềm khinh thị và mỉa mai. Bởi vậy Thánh Phaolô đã bỏ đi: nỗ lực của ngài đường như bị thất bại; tuy nhiên, có một số lại gắn bó với lời của ngài và chấp nhận đức tin, trong số đó có một nam nhân là Dionysius, phần tử của Nghị Viện ấy, và một nữ nhân là Damaris. Ở Nhã Điển này Phúc Âm cũng đâm rễ và tiến triển với 2 tiếng nói: tiếng của nam nhân và tiếng của nữ nhân!

    Hôm nay chúng ta cũng hãy xin Thánh Linh dạy cho chúng ta biết xây dựng các cây cầu nối với các nền văn hóa, với những ai không tin hay có niềm tin khác với chúng ta. Bao giờ cũng phải xây dựng những cây cầu nối, bao giờ cũng phải vươn tay ra, chứ đừng hung hăng. Chúng ta hãy xin Thánh Linh cho chúng ta khả năng biết hội nhập văn hóa sứ điệp đức tin một cách khéo léo, gợi lên cho những ai chưa biết Đức Kitô một cái nhìn chiêm ngắm, được tác động bởi một tình yêu thương sưỡi ấm cả những cõi lòng cứng cỏi lạnh lùng nhất.

    https://zenit.org/articles/holy-father-continues-journey-through-acts-of-the-apostles/

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch kèm theo nhan đề và các chi tiết nhấn mạnh tự ý bằng mầu  

     

    ---------------------------------

HOC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - CHỜ NGÀY GIÁNG SINH

  •  
    Chi Tran - Dec 1 at 11:20 PM
     
     
     

    THÁNG 12: CHỜ NGÀY GIÁNG SINH

     

    Tại nhiều nước, 4 Chúa Nhật này được biểu hiện bằng 4 ngọn nến thắp sáng cho thấy lòng mong chờ của con người được diện kiến Hài Nhi Giêsu. Theo lễ nghi Rôma, Giáo Hội trình bày những chủ đề khác nhau:

     

     

    Tháng 12 là tháng cuối cùng của năm, nhưng theo lịch Công Giáo lại là tháng khai mở một năm phụng vụ mới. Tháng này chắc hẳn ai cũng nhận thấy bầu không khí bên ngoài đang rộn ràng lễ hội. Bên cạnh đó, nhiều nơi chờ mong những ngày Giáng sinh để nghỉ ngơi và chào đón năm mới. Với người công giáo, đây không chỉ là thời gian của niềm vui, nhưng còn là những ngày của Mùa Vọng.

     

    Vọng là chờ mong, ngóng đợi. Chờ gì? Chờ Ai? Và tại sao phải chờ? Từ khi con người sa ngã, Thiên Chúa hứa ban một Đấng để đem con người trở về vườn địa đàng. Đó là khoảng thời gian dài vô tận mà con người chờ mong, van xin và hy vong. Nếu tính lịch sử dân Chúa từ thời tổ phụ Abraham năm 1900 TCN, họ đã trải qua chừng ấy năm đợi và chờ[1]. Có thể tóm tắt tâm tình chờ mong của người xưa qua lời nguyện của tiên tri Isaia (sống 700 năm trước Chúa Giáng Sinh): “Trời cao hỡi, nào hãy gieo sương, mây hãy đổ mưa, mưa đức công chính; đất mở ra đi cho nẩy mầm ơn cứu độ.”

     

    Tạ ơn Thiên Chúa, vì ơn cứu độ ấy đã đến với dân người. Lịch sử ghi nhận vào khoảng giữa năm 7 và 4 TCN, có một Hài Nhi Giêsu chào đời. Từ đó, nhân loại bước sang thời Tân Ước. Để tưởng niệm biến cố trọng đại ấy, Giáo Hội hằng năm mừng kính lễ Chúa Giáng Sinh[2] vào 25 tháng 12. Gọi là tưởng nhớ vì Chúa Giêsu đã sinh ra vào một đêm giá lạnh. Ngài đã trải qua cuộc đời dương thế, đã chết, đã sống lại và lên trời. Chính Chúa Giêsu sẽ trở lại lần thứ hai trong ngày tận thế. Như vậy, chờ mong không chỉ là tưởng nhớ biến cố Giáng Sinh, nhưng còn hướng về ngày Chúa Giêsu khải hoàn.

     

    Để chuẩn bị tâm hồn chiêm ngắm Thiên Chúa nơi thân xác con người, Giáo hội dành 4 tuần, được gọi là 4 Chúa Nhật mùa Vọng. Tại nhiều nước, 4 Chúa Nhật này được biểu hiện bằng 4 ngọn nến thắp sáng cho thấy lòng mong chờ của con người được diện kiến Hài Nhi Giêsu. Theo lễ nghi Rôma, Giáo Hội trình bày những chủ đề khác nhau:

     

    1. Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng: chúng ta chờ mong Thiên Chúa đến lần thứ hai. Đó là ngày cánh chung, là ngày tận thế.
    2. Chúa Nhật thứ hai: các bài đọc gợi nhớ cho chúng ta đến những lời giảng của thánh Gioan Tẩy Giả. Ngài kêu gọi người ta chuẩn bị con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Đấng Thiên Sai đến.
    3. Chúa Nhật thứ ba: nhắc đến niềm vui của ngày Đấng Cứu Độ đến trần gian.
    4. Chúa Nhật thứ tư: nhắc chúng ta nhớ đến câu chuyện của Đức Mẹ và Thánh Giuse liên quan đến cuộc hạ sinh của Chúa Giêsu.

    Chắc hẳn ai cũng dễ dàng nhận ra những rộn ràng bên ngoài của tháng đặc biệt này. Nào là hang đá đèn giăng, nào là cây thông ánh nến và những buổi tập dợt, biểu diễn văn nghệ đêm Giáng sinh. Trong những tuần này, các bạn trẻ dễ dàng nghe được nhiều từ thật ý nghĩa: Hy vọng, Hòa bình, Vui mừng, Tình yêu, Chuẩn bị, Thiên sứ, Ba vua, Thánh gia, và đỉnh cao là Đêm Giáng Sinh, v.v.

     

    Có lẽ đối với nhiều người, dạo phố đêm những ngày này xem hang đá cũng là điều thú vị. Tôi biết nhiều bạn rủ những bạn không cùng tôn giáo đến thánh đường trong đêm Giáng Sinh. Thật đẹp! Nhiều mối tình cũng đơm hoa, kết trái trong những tuần lễ này. Nhiều tấm thiệp cũng được gởi tặng nhau với dòng chữ: Merry Christmas! Mừng Chúa Giáng Sinh! Nhiều bữa tiệc tùng cũng được tưng bừng mừng lễ, .v.v. Bởi đơn giản, đó không chỉ là ngày lễ của người Công Giáo, nhưng đã trở nên một văn hóa lễ hội ở nhiều nơi. Ước gì Hài Nhi Giêsu nối kết muôn người!

     

    Chút lượt qua như thế để cho thấy đây là tháng có thể là vui nhất trong năm. Vui vì Hoàng Tử hòa bình đã đến với trần gian. “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương”[3]. Đó là ước vọng của mỗi người chúng ta trong tháng cuối năm này. Để ước gì không chỉ hào nhoáng bên ngoài, nhưng mỗi người còn tìm được niềm vui của Chúa Hài Đồng trong chính tâm hồn mình. Được như thế, chúng ta tiễn biệt một năm với lòng biết ơn Thiên Chúa; đồng thời, qua Đêm Giáng Sinh, chúng ta chuẩn bị bước vào một năm mới. Trong hành trình ấy, chắc chắn Chúa Hài Đồng sẽ luôn là ánh sáng rọi chiếu cho mỗi người trên bước đường đời.

     

    Lạy Chúa Giêsu, tháng 12 về, Mùa Vọng đến là lòng chúng con rộn mừng chờ mong Chúa đến. Mừng sinh nhật Chúa! Mỗi mùa Giáng sinh là thời gian để mong, để mừng và để nhớ. Xin Chúa đến với từng người chúng con. Nhất là những ai đang thiếu vắng bình an, những bệnh nhân và người nghèo khó, những tâm hồn lạnh lẽo, v.v. Xin cho chúng con và cho họ được một Mùa Giáng Sinh an lành và hạnh phúc.

     

    Giuse Phạm Đình Ngọc SJ

    [1] Theo ước tính của các nhà khoa học, khoảng 40 ngàn năm trước đây, Người hiện đại hay Người tinh khôn (Homo Sapiens) đã ra đời. Homo Sapiens có cấu tạo cơ thể phát triển như người ngày nay. Nói chung sau khi ông bà Tổ Tông phạm tội, Thiên Chúa đã thực hiện chương trình cứu độ con người.

     

    [2] Tại sao lại rơi vào ngày này cũng là chủ đề sôi nổi trong giới học giả. Một trong nhiều lý do được chúng ta biết đến đó là ngày lễ hội Mặt Trời.

     

     

     Câu thánh vịnh về mùa Giáng Sinh này đã khơi nguồn cho Hàn Mạc Tử : “Tứ thời xuân! Tứ thời xuân non nước! Phút thiêng liêng nhuần gội áng thiều quang. Thiên hạ bình, và trời tuôn ơn phước. Như triều thiên vờn lượn khắp không gian.” (Nguồn Thơm)

     

     
     
     

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - THIÊN THẦN MICAE

TỔNG LÃNH THIÊN THẦN MICAE (MICHAEL) ĐẦY QUYỀN THẾ

Nguồn: Internet

TLTT Michael rất linh thiêng và đầy quyền thế. Theo truyền thống thì Thánh TLTT Michael đã hiện đến với một vị giám mục người Ý vào năm 493 và thánh hoá một hang động ở gần đó. Nơi này về sau được gọi là Đền Thánh Thiên Thần tại vùng Gargano và người ta thường gọi tắt là Monte Gargano. Đây là một trong những đền thánh xưa cổ nhất được thánh hiến cho Thánh Michael. Ai ai cũng muốn đến hành hương tại nơi này. 

Thánh Michael đã nói với vị giám mục rằng:
“Ta là Tổng Lãnh Thiên Thần Michael, và Ta đã chọn nơi này để hiện diện và làm cho nơi này được an toàn ."

Khi người ta đến hang đá này để thánh hiến thì Thánh Michael nói:
“Các con không cần thiết phải thánh hiến nơi này vì chính Ta đã thánh hiến nó với sự hiện diện của Ta ."

Huyền thoại nói rằng một trong những hòn đá nơi đền Thánh này có dấu chân của Thánh Michael. 

Hơn 1000 năm sau, Thánh Michael lại hiện ra nơi đền Thánh ấy, nơi mà ngài đã hiện ra và nói với một vị giám mục:
"Ta là TLTT Michael. nếu ai đụng chạm đến những hòn đá này thi họ sẽ được giải thoát ."

Kể từ đó, những viên đá nhỏ xuất phát từ hang đá Monte Gargano đã được chia cho thế giới và được gọi là: "Đá Thánh của Thánh Michael". 

Theo lời kể của nhà trừ quỷ là LM Chad Ripperger, thì những viên đá này được dùng để trừ quỷ một cách rất hữu hiệu và xua đuổi sự ám ảnh của ma quỷ. Theo truyền thống thực hành trừ quỷ thì giáo quyền dùng các xương Thánh trong nghi thức trừ quỷ. Họ cũng kêu cầu sự trợ lực của các Thánh và các Thiên Thần để cùng chống lại hành động của Satan.

Các "Xương Thánh" này bây giờ vẫn còn hiện diện tại Đền Thánh Monte Gargno. Các linh mục và giáo dân sử dụng như một á bí tích để giúp người ta yêu mến Chúa hơn qua lời cầu bầu của TLTT Michael. Có giấy chứng nhận chứng thực rằng các viên đá ấy được lấy từ đền Thánh mà chính Thánh TLTT Michael đã thánh hoá với sự hiện diện của ngài. 

Cảm nghiệm của Kim Hà:
Cách đây gần 20 năm, chúng tôi đã hướng dẫn các phái đoàn hành hương thăm Đền Thánh Padre Pio tại Redondo và Đền Thánh Monte Gargarno vì hai nơi này tương đối ở gần nhau. Thật là những nơi Thánh lý tưởng để đến cầu nguyện và lãnh nhận các ơn lành của Thiên Chúa! Không phải ai ai cũng có thể đến được vì người ta bận rộn lo cơm áo và gia đình, ngay cả người giàu có cũng không đến được vì những trói buộc của vật chất.  

Trong một thời đại xẩy ra nhiều biến cố xấu như thiên tai và nhân tai, chúng ta hãy vâng lời giáo hội mà cùng nhau kêu cầu TLTT Michael để xin ngài bảo vệ thế giới, giáo hội và gia đình của chính chúng ta.

Sau đây là một Kinh Cầu Tổng Lãnh Thiên Thần Micae bằng tiếng Việt và bằng tiếng Anh:
1. Kinh Cầu Tổng Lãnh Thiên Thần Micae bằng tiếng Việt
Lạy ơn Tổng Lãnh Thiên Thần Micae, xin giúp chúng con trong cơn giao chiến, đánh phá sự hiểm ác mưu sâu quỉ dữ. Chúng con sấp mình nguyện xin Chúa chế trị nó cùng xin nguyên soái cơ bình trên trời lấy quyền phép Chúa mà hạ Satan cùng các quỉ dữ đang rong ruổi khắp thế làm hại các linh hồn. Xin bắt chúng giam cầm trong hỏa ngục. Amen

2. Prayer to Holy Michael the Archangel
Holy Michael, the Archangel, defend us in battle. Be our safeguard against the wickedness and snares of the devil. May God rebuke him, we humbly pray; and do you, O Prince of the heavenly host, by the power of God cast into hell Satan and all the evil spirits who wander through the world seeking the ruin of souls. Amen.

Chúng ta hãy sốt sắng đọc kinh này nhiều lần hàng ngày để xin Thánh Michael bảo vệ thế giới, các quốc gia, các giáo hội Công Giáo trên thế giới và các gia đình của chúng ta. Amen.

Kim Hà, 5/10/2018

------------------------------------------