1. Hôn Nhân & Gia Đình

CAC BÀI ĐỘC GIẢ GỞI TỚI - TS DUYỆT -

  •  

    THEO ĐẠO VÀ CHÚA THƯỞNG PHẠT NHƯ THẾ NÀO SAU KHI CHẾT

     

    Trần Mỹ Duyệt

     

    Thưa chú, hôm nay cháu có mấy câu hỏi nhờ chú giúp ý kiến:

     

    Con của cháu nó hỏi con: “Một người tin vào Chúa thì được lên Thiên đàng? Nhưng nếu một người sinh ra ở North Korea nơi bị cấm giảng đạo thì làm sao họ biết Chúa được, không lẽ họ không được lên Thiên đàng sao?”

     

    Và : “Một người tội ác ngập đầu, nhưng biết tin Chúa vào phút cuối cuộc đời thì lại được  lên thẳng Thiên đàng (như người trộm lành), như vậy có công bằng không? Còn những người suốt đời như mẹ tin Chúa, tối ngày lo đọc kinh, đi lễ không lẽ cũng bằng một người chỉ tin vào phút chót mà cả đời toàn là tội lỗi sao? Như vậy Chúa có “fair” trong trường hợp này không? Con thấy người Công giáo nào cũng khoe mình tin Chúa, vậy họ lên thiên đàng hết sao?” 

     

    Những câu hỏi mà nó làm cháu nhức óc. Cháu cãi không lại nó thưa chú.

     

    TN Ph.

     

     

    Trả lời góp ý:

     

    Hai câu hỏi bao gồm một số vấn đề của con cháu cũng là những câu hỏi mà rất, rất nhiều bạn trẻ đã hỏi, đã thách thức với cha mẹ. Cũng như cháu, nhiều cha mẹ “cãi” không lại với bọn trẻ. Vậy sau đây là vài tư tưởng góp ý, hy vọng cháu sẽ dùng để có dịp nói chuyện lại với con của cháu.

     

    Trước khi đi vào những chi tiết, có một điều mà tôi muốn nói ngay, đó là khi một số phụ phụ đến than thở với linh mục về tình trạng con cái bỏ nhà thờ, bỏ cầu nguyện, bỏ sống đạo thì thường được nghe những câu, đại khái: “Con cái thời nay là thế. Mình đã cố gắng hết sức rồi, hãy để mặc Chúa lo liệu. Sẽ có ngày nó quay về với Chúa, với Giáo Hội.” Phụ huynh nào nghe những câu an ủi như vậy cũng thấy được an lòng, tuy nhiên vấn đề không đơn giản và dễ dàng như vậy. Thế nào là “đã cố gắng hết sức?” Thế nào là “Hãy để mặc Chúa lo liệu?” Nói như vậy là nói huề vốn, nói cho vui tai, và vừa lòng người hỏi.

     

    Điểm quan trọng là khi con cái bỏ nhà thờ, bỏ lễ lạy, kinh hạt, bỏ cầu nguyện, bỏ Chúa thì người có trách nhiệm trực tiếp nhất vẫn là cha mẹ, vẫn phụ huynh. Và điều mà chúng ta phải hỏi lòng mình là thực sự “đã cố gắng hết sức chưa?” Bằng cách nào? Có phải là bằng những việc làm rõ ràng, cụ thể và những cố gắng đôi khi đòi phải hy sinh, chịu đựng, nhẫn nại và bền bỉ, hay chỉ bằng những hành động, lời nói sơ sài, chiếu lệ như khuyên bảo vài câu, la mắng vài lần rồi bỏ mặc. Trong thực hành, vợ chồng, cha mẹ có siêng năng đọc kinh, cầu nguyện sáng tối với nhau không? Có tham dự thánh lễ mỗi ngày, tham dự các giờ kinh nguyện, giờ chầu Thánh Thể trong giáo xứ, có tha thứ, chịu đựng, làm gương sáng cho con cái không? Hay ngược lại, vẫn rượu chè, vẫn cãi vã, vẫn chôm chỉa, vẫn gian lận, vẫn ngoại tình, vẫn chửi thề, vẫn khô khan, nguội lạnh, vẫn lười biếng cầu nguyện, bỏ lễ, bỏ thực hành đạo?

     

    Sau khi đã cố gắng hết sức thì “hãy để mặc Chúa lo liệu?”. Đúng vậy, đây cũng là cách mà Monica đã áp dụng, có nghĩa là thánh nữ đã phải mất ròng rã 17 năm trong hy sinh, trong kinh nguyện, và trong nước mắt để mới có một Augustine trở lại. Đó cũng là cách thức mà bố mẹ của Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã làm, là đã phó thác cho Chúa khi trọn đời sống đạo tốt lành để nêu gương sáng cho các con. Thánh nữ đã nói về cha mẹ mình: “Thiên Chúa đã ban cho con một người cha mẹ xứng với Thiên Đàng hơn trần thế.” Kết quả là chính hai ông bà đã được phong thánh, Têrêsa cũng được phong thánh, mà hơn thế, còn được phong làm Tiến Sỹ Hội Thánh và Bổn Mạng Các Xứ Truyền Giáo. Còn lại 4 người chị của thánh nữ đều là những nữ tu thánh thiện, 3 trong đan viện Carmelô ở Lisieux, và 1 thuộc Dòng Thăm Viếng. Đó mới là trọn vẹn ý nghĩa của “cố gắng hết sức” và “phó mặc cho Chúa”.

     

    Sau đây là bước vào phần những câu hỏi:

     

    “Một người tin vào Chúa thì được lên Thiên đàng? Nhưng nếu một người sinh ra ở North Korea nơi bị cấm giảng đạo thì làm sao họ biết Chúa được, không lẽ họ không được lên Thiên đàng sao?”

     

    Đúng vậy, “Những ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu rỗi, còn những ai không tin thì sẽ bị luận phạt.” (Mác-cô 16:16). Đây là điều kiện cần phải có để được lên Thiên Đàng. Nhưng lời Chúa nói tự nó đã diễn tả giữa hai trạng thái lên hoặc không được lên Thiên Đàng. Đó là “tin” hoặc “không tin.”

     

    “Không biết không có tội.” Một người không được nghe, không được biết, không được giảng giải làm sao bắt tội người ta là “không tin”. Chỉ có những người đã biết, đã nghe, và đã được học hỏi về Chúa, về giáo lý của Chúa và về ơn cứu độ, mà vẫn không tin, không chấp nhận, và không thực hành mới là đối tượng của luận phạt - mất hạnh phúc Thiên Đàng. Vậy đừng lo cho những người ở North Korea hay ở bất cứ nơi nào trên thế giới mà ở những nơi đó ánh sáng Phúc Âm chưa chiếu soi, và Tin Mừng của Chúa chưa được truyền rao đến. Chúa có cách cứu độ những người ấy, vì theo Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI, thì trên trái đất có bao nhiêu người là có bấy nhiêu con đường lên Thiên Đàng. Tại sao?

     

    Vì mỗi người khi sinh vào đời, Thiên Chúa đều ban cho một lương tâm, hay còn được gọi là cán cân lành dữ. Nếu không được học cách sử dụng cán cân này bằng những giáo lý, giáo huấn của Giáo Hội, những hướng dẫn của đạo đức của luân lý, và những soi dẫn Phúc Âm, thì ít nhất cũng phải sống và hành động theo hướng dẫn của lương tâm chân chính, của luật lành và dữ. Sống và thực hành những điều lương tâm mách bảo với một niềm tin tưởng vào Đấng Tối Cao như vậy cũng đủ để được Ngài ân thưởng. Tuy nhiên, nếu đã biết Ngài, đã nghe nói về Ngài, và đã được hướng dẫn đầy đủ mà vẫn nhất định không tuân theo thì lúc ấy không những Ngài sẽ loại bỏ, mà chính lương tâm người ấy cũng sẽ loại bỏ họ. 

     

    : “Một người tội ác ngập đầu, nhưng chỉ cần biết tin Chúa vào phút cuối cuộc đời như người trộm lành mà cũng được lên thẳng Thiên đàng, như vậy có công bằng không? Còn những người suốt đời như mẹ tin Chúa, tối ngày lo đọc kinh, đi lễ không lẽ cũng bằng một người chỉ tin vào phút chót mà cả đời toàn là tội lỗi sao? Như vậy Chúa có “faire” trong trường hợp này không? Con thấy người Công giáo nào cũng khoe mình tin Chúa, vậy họ lên thiên đàng hết sao?” 

     

    Không phải vậy. Đây là một ý nghĩ phiến diện và cho thấy là chưa thông hiểu về tình thương Thiên Chúa và đức công chính của Ngài. Người trộm lành. Tôi không thích danh từ này, vì đã đi ăn trộm, ăn cướp thì không bao giờ gọi là “lành”, đúng ra phải gọi anh ta là “người trộm thống hối”, bởi vì anh ta đã nhận ra tội của mình, đã thống hối, ăn năn và xin Chúa thương xót:

          

    “Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: “Ông không phải là Ðấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” Nhưng tên kia mắng nó: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” Rồi anh ta thưa với Ðức Giêsu: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” Và Người nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Ðàng”. (Luca 23: 39-43)

     

    Cái giá Thiên Đàng cho anh trộm thống hối không hề rẻ. Anh ta không chỉ nhận ra lỗi lầm của mình, chấp nhận hình phạt, và còn dám tuyên xưng Đức Tin và tin vào Đấng Cứu Thế. Dĩ nhiên, Thiên Chúa không thể nào không đón nhận một người con thống hối. Chúng ta hãy nghe để hiểu được tình thương của Cha trên trời đối với những đứa con tội lỗi nhưng biết xám hối:

     

    “Nhưng nếu kẻ gian ác từ bỏ mọi tội lỗi mình đã phạm mà tuân giữ mọi quy tắc của Ta, cùng thi hành điều chính trực công minh, thì chắc chắn nó sẽ sống, nó không phải chết. Mọi tội phản nghịch nó phạm, người ta sẽ không còn nhớ đến; nó sẽ được sống vì đã thi hành lẽ công minh. Chẳng lẽ Ta lại vui thích vì kẻ gian ác phải chết – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng – Ta lại không muốn cho nó từ bỏ đường lối của nó mà được sống sao?” (Ezekiel 18:21-23).

     

    Nhưng thử hỏi là được bao nhiêu tội nhân suốt đời ăn chơi, hoang đàng, đĩ điếm, gian dâm, trộm cướp, tham lam, giết người… mà trước giờ chết biết nhận ra lỗi lầm, biết xin lỗi, và biết kêu cầu lòng thương xót Chúa? Điều này xét theo mặt tự nhiên đã là khó, và càng khó hơn nữa khi lúc đó còn có ma quỉ vây quanh cám dỗ, làm cho mất niềm tin, và sự cậy trông nơi Thiên Chúa thì việc ăn năn, hối lỗi không hề dễ.

     

    Trở lại việc người trộm thống hối và những tội nhân thống hối khác nếu được vào Thiên Đàng thì chắc chắn phần thưởng, hạnh phúc và sự cảm thấu về Thiên Chúa sẽ không bằng những vị suốt đời hy sinh, cầu nguyện, sống tiết độ, làm việc thiện. Lý do vì Thiên Chúa yêu thương hết mọi người nhưng cũng công bình với hết mọi người. Thánh nữ Têrêsa diễn giải về hạnh phúc Thiên Đàng bằng một hình ảnh rất hay, rất dễ hiểu và rất ý nghĩa. Đại khái có chị em hỏi Thánh Nữ về Thiên Đàng và hạnh phúc trên đó có đồng đều như nhau không, thì Thánh Nữ đã trả lời qua một thí dụ:

     

    Nếu gọi hạnh phúc Thiên Đàng như suối nguồn hạnh phúc, thì khi lên đó nếu ta có một chiếc ly, một chiếc bát, một chiếc bình, một cái thùng, một cái hũ…là những gì chúng ta tạo được trên cõi đời này bằng hy sinh, cầu nguyện, chịu khó và những việc lành phúc đức, thì lúc đó Thiên Chúa sẽ làm tràn đầy những chiếc ly, chiếc bát, chiếc bình, cái thùng, cái hũ…đó. Điều này có nghĩa là mọi người đều được hạnh phúc tràn đầy, nhưng rõ ràng là mức độ tràn đầy không như nhau.

     

    Như vậy thì cháu cứ việc hy sinh, cầu nguyện và sống tốt lành. Phần thưởng Thiên Đàng của cháu sẽ tràn đầy theo những gì đã sắm được trên cõi đời này trước khi đem vào cõi trường sinh. Thiên Chúa sẽ không unfair (bất công) với cháu, hoặc cũng không thiên vị với bất cứ ai. Vì mỗi người đều lãnh công theo việc lành mình đã làm: “Kẻ trồng người tưới đều như nhau, nhưng ai nấy sẽ được thù lao theo công khó của mình.” (1 Corintho 3: 8) 

     

    Và sau cùng là “Con thấy người Công giáo nào cũng khoe mình tin Chúa, vậy họ lên thiên đàng hết?”

     

    Ồ! Không. Chính Chúa Giêsu đã dạy rằng:

     

    “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: “Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?” Và bấy giờ, Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!” (Mt 7: 21-23)

     

    Căn cứ vào lời Chúa vừa trưng dẫn trên, thì việc lên Thiên Đàng hay được cứu rỗi chắc chắn không hề lệ thuộc vào việc ai đó xưng mình là người Công Giáo. Theo như Chúa Giêsu thì “nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ” mà còn bị Chúa coi như không hề biết, huống hồ chỉ mang danh Công Giáo mà lại sống như người không có Đức Tin. Thiên Chúa không cưỡng ép ai lên Thiên Đàng, nhưng Ngài cũng không ném ai vào hỏa ngục. Lên hay xuống là tùy mỗi người, tùy sự đón nhận, và đáp lại tiếng mời gọi đầy tình thương của Ngài.

     

    Hy vọng những gì vừa trình bày trên giúp cháu có thêm chút kiến thức để nói chuyện với tuổi trẻ ngày nay.

     

    Trần Mỹ Duyệt

     

     ---------------------------------------------

       

     

     

ĐỜI SỐNG TÂM LINH -NHỮNG HÌNH THỨC

  •  
    Chi Tran - LEYEN
     
     
     
     
     


    NHỮNG HÌNH THỨC
    CÓ TÂM LINH MÀ KHÔNG CÓ ĐẠO" KHÁC NHAU
     
    Chúng ta đều biết câu, ‘chúng tôi có đời sống tâm linh nhưng không có đạo’ (dùng cho những người cởi mở với chuyện có Chúa nhưng không cởi mở với chuyện liên quan đến Giáo hội).
    Không gì giống với ngôn ngữ của Thiên Chúa bằng im lặng, nhà thần học Đức Meister Eckhart đã nói như thế.
    Một trong những hàm ý của ngài là một hoạt động nội tâm sâu sắc nào đó chỉ có thể thực hiện trong thinh lặng, một mình, riêng tư.
    Dĩ nhiên ngài đúng, nhưng chuyện này còn có một khía cạnh khác. Dù có một số hoạt động nội tâm sâu sắc chỉ có thể được thực hiện trong thinh lặng, nhưng cũng có một số hoạt động tâm linh, trọng yếu và sâu sắc chỉ có thể được thực hiện khi cùng làm với người khác, khi ở trong một mối quan hệ, gia đình, giáo hội và xã hội. Sự thinh lặng có thể là con đường đặc biệt để đi đến chiều sâu của linh hồn. Nhưng nó cũng có thể là một con đường nguy hiểm. Ted Kaczynski, hay còn gọi là kẻ khủng bố Unabomber, đã sống trong thinh lặng, cô độc, và nhiều người bị rối loạn tâm thần sâu sắc khác cũng thế. Các chuyên gia về sức khỏe tâm thần cho chúng ta biết, để giữ mình tỉnh táo thì phải có tương tác với người khác. Sự tương tác xã hội giúp chúng ta đứng vững, cân bằng và tỉnh táo. Tôi nhìn vào một vài người trẻ thời nay đang tương tác với người khác (trực tiếp hoặc qua mạng xã hội), liên tu bất tận khi họ không ngủ, và dù không lo lắng về sự tỉnh táo thì cũng đáng lo cho chiều sâu của họ.
    Chúng ta cần nhau. Triết gia Pháp Jean-Paul Sartre từng nói câu lừng danh “tha nhân là địa ngục”. Ông không thể sai hơn. Xét cho cùng, tha nhân là thiên đàng, là cứu rỗi mà chúng ta được định cho. Tuyệt đối cô độc mới là địa ngục. Hơn nữa, sự cô độc hiểm ác này có thể lẻn vào chúng ta dưới lớp vỏ tôn giáo và vị tha tốt đẹp nhất.
    Tôi xin đưa ra một ví dụ. Tôi lớn lên trong một gia đình gắn bó với cộng đồng nông thôn nhỏ, nơi gia đình, hàng xóm, giáo xứ giao tiếp với người khác là tất cả, nơi mà mọi thứ đều được chia sẻ và hiếm khi chúng tôi ở một mình. Tôi đã sợ ở một mình, tránh né và thậm chí tôi chỉ thoải mái khi ở bên người khác.
    Tốt nghiệp trung học, tôi vào Dòng Hiến Sĩ Đức Mẹ, và trong tám năm ở đó, tôi sống trong một cộng đồng lớn và cũng là nơi mọi thứ đều được chia sẻ và hiếm khi chúng tôi ở một mình. Khi sắp khấn trọng và khấn vĩnh viễn với đời sống tu trì và chức linh mục, điều tôi sợ nhất là lời sống độc thân khiết tịnh và sự cô đơn đi kèm. Không vợ, không con, không gia đình và sự cô lập của đời sống độc thân.
    Hóa ra mọi chuyện lại không phải thế. Dĩ nhiên đời sống độc thân có những cái giá của nó, và nó cũng không phải là cuộc sống bình thường mà Thiên Chúa dự định cho tất cả mọi người. Tuy nhiên, sự cô đơn mà tôi đã e sợ (dù chỉ trong những khoảnh khắc ngắn ngủi) lại hiếm khi xảy ra, thực tế ngược lại thì đúng hơn. Tôi thấy cuộc đời của tôi đầy ắp các mối quan hệ, tương tác, bận rộn, áp lực thường nhật và những cam kết lấp đầy mọi giờ trong ngày. Thay vì cảm giác cô đơn, tôi thấy mình lại thường khao khát được cô tịch, được tĩnh lặng, được ở một mình, và tôi dần cảm thấy khá thoải mái với chuyện ở một mình. Thật sự là quá thoải mái với nó.
    Trong hầu hết những năm đời linh mục, tôi sống trong cộng đồng dòng tu lớn, và cộng đồng cũng như bất kỳ một gia đình nào, luôn có những đòi hỏi. Tuy nhiên, khi tôi làm Viện trưởng Trường Thần học, tôi được phân ở ngôi nhà dành riêng cho Viện trưởng và trong một thời gian, tôi ở một mình. Mới đầu, tôi hơi hoang mang vì chưa hề ở một mình, nhưng sau một thời gian, tôi quen dần. Tôi lại thích thế. Tôi không có trách nhiệm phải ở nhà vì ai cả ngoài chính tôi.
    Nhưng tôi sớm nhận ra những nguy cơ của chuyện này. Sau một năm, tôi bỏ đặc quyền này. Một trong những nguy cơ của sống một mình và một trong những nguy cơ của đời sống độc thân, kể cả khi chúng ta trung thành sống với nó, là chúng ta không có người khác để nhắc nhở và đòi hỏi chúng ta. Chúng ta phải tự nhắc bản thân và có thể tránh cái mà Dorothy Day gọi là “sự khổ hạnh của sống trong một gia đình”. Khi sống một mình, chúng ta dễ dàng lên kế hoạch và sống theo ý mình, tự do kén chọn giao thiệp, chọn người nào trong gia đình, cộng đồng nào chúng ta thích, tránh những người gây khó khăn cho mình.
    Có những chuyện ban đầu là nhân đức rồi dễ dàng biến thành thói xấu. Như bận rộn chẳng hạn. Chúng ta hy sinh thì giờ ở bên gia đình để đi làm kiếm tiền nuôi sống gia đình, nhưng rồi nó làm chúng ta xa sinh hoạt gia đình. Mới đầu, đây là hy sinh, nhưng cuối cùng nó lại thành lối thoát, một miễn trừ cố hữu để chúng ta khỏi phải đương đầu với những chuyện nào đó trong đời sống gia đình. Đời sống độc thân theo lời khấn và đời linh mục cũng có cùng nguy cơ đó.
    Chúng ta đều biết câu, ‘chúng tôi có đời sống tâm linh nhưng không có đạo’ (dùng cho những người cởi mở với chuyện có Chúa nhưng không cởi mở với chuyện liên quan đến Giáo hội). Tuy nhiên, với hình thức này, chúng ta chật vật hơn là chúng ta nghĩ. Ít nhất là với tôi. Là một linh mục đã khấn sống đời độc thân, tôi cũng có thể sống kiểu như vậy với những lý do cao đẹp nhất, tôi có thể tránh được những khổ hạnh thường nhật vốn có nơi những người sống trong gia đình.
    Tuy nhiên, đây là nguy cơ cho tất cả chúng ta, dù là độc thân hay lập gia đình. Khi chúng ta, dù với những lý do tốt đẹp, có thể kén chọn phần nào trong gia đình và cộng đồng mà chúng ta thích để giao thiệp và phần nào gây khó khăn cho chúng ta để tránh né, thì đó chính là kiểu có đời sống tâm linh mà không có đạo.
    Ronald Rolheiser,
    J.B. Thái Hòa dịch
     

MỖI NGÀY MỘT CÂU KT- DAILY BIBLE VERSE - EMMANUEL

  •  
    Emmanuel
    DAILY BIBLE VERSE

    Do not despise small beginnings

    “Jesus said, “What is the Kingdom of God like? To what can I compare it? It is like a mustard seed that a man took and planted in the garden. When it was fully grown, it became a large bush and ‘the birds of the sky dwelt in its branches.’”

    Again he said, “To what shall I compare the Kingdom of God? It is like yeast that a woman took and mixed in with three measures of wheat flour until the whole batch of dough was leavened.” (Luke 13: 18 - 21).

    Tuesday October 25th of the 30th week of Ordinary Time. Why does Jesus compare the Kingdom of God with a mustard seed? To teach future generations of Christians never to despise small beginnings. Everything is created small.

    The mustard seed is a very tiny seed and therefore liable to be lost without regret, thrown away without remorse. Jesus gives us the best analogy of the the humble beginning of the Church in the Parable of the Mustard Seed.

    After a night of prayer to His Father, Jesus chose, called and anointed 12 Apostles to go and announce the Kingdom of God. Imagine that you were there in the crowd on the day that Jesus appointed Peter, Simon and Jude and others as Apostles. Could you believe that 2000 short years after, this tiny mustard seed will be a family of billions of people spreading out branches throughout the earth?

    The Kingdom of God is a mystery. The life inside the tiny mustard seed is a mystery. The tiny spermatozoon is packed with a DNA that is a mystery.

    Do not despise the small beginning. Do not thrash the Church and its mysteries because you do not understand them.

    The mystery of faith calls for only one response: Belief. When you believe, you stand the chance that you can understand. Believe always comes first.

    "Blessed are you, Father, Lord of heaven and earth, for revealing the mysteries of the Kingdom to mere children." (Matthew 11: 25).

    Accept the Kingdom of God like a little child.

    10. 25  "The Rosary is the glory of the Roman Church.... It takes its place ... after the Mass and the Sacraments." (Pope St John XXIII).

    Daily Bible Verse @ SeekFirstcommunity.com

    ++++++++++++++++++++++++++++
    "Seek first the kingdom of God and
    his righteousness, all these things
    will be given you  besides."
    (Matthew 6:33)
    ++++++++++++++++++++++++++++
     
     

VĂN HÓA VÀ GIA ĐÌNH - LÌA XA CHA MẸ

  •  
    Chi Tran -LEYEN
     
     
     


     
    XA LÌA MẸ CHA
     
    Người ta có thể chia tay người yêu, ly dị với bạn đời, chấm dứt tương quan với người khác, nhưng chẳng ai có thể làm gì để trở nên “không còn là con cái hay là cha mẹ” của ai đó được.
    Tình cảm gia đình là một cái gì đó rất thiêng liêng và cao cả. Gia đình là một sáng kiến tuyệt vời của Tạo Hoá, để qua đó, Ngài tiếp tục thực thi công trình sáng tạo với sự góp sức của con người. Từ tình yêu và sự kết hợp giữa người nam và người nữ, một mầm sống mới ra đời. Hơn ai hết, cha mẹ cảm nếm được niềm hạnh phúc lớn lao khi thấy thành quả tình yêu của mình hiển hiện ngay trước mắt. Ngay từ lúc đứa con ấy còn đang thành hình trong dạ mẹ, đã có một sự mong chờ thấp thỏm ngày đêm trong lòng. Đứa con ấy ra đời, là hình ảnh của chính cha mẹ, là máu là xương là thịt của cha mẹ, là bản sao di truyền tiếp nối từ đời này đến đời kia, và cứ thế, sự sống lan ra qua từng thế hệ.
    Niềm hạnh phúc khi được làm cha làm mẹ chắc hẳn là chỉ có ai trong cuộc mới hiểu được. Niềm hạnh phúc ấy bao gồm cả những lắng lo, trách nhiệm. Cha mẹ là những người duy nhất trên thế giới này đã, đang và sẽ luôn cho con cái mình mọi thứ mà không cần chúng đền đáp gì, chỉ mong sao chúng được nên người, trở thành những công dân hữu ích cho xã hội. Bởi thế, cha mẹ luôn dành cho mọi sự tốt nhất cho con cái, tình yêu thương, sự săn sóc, gần gũi… Đối với cha mẹ, con cái là cả thế giới, là mục đích sống, là niềm an vui, niềm hy vọng… là tất cả, nên dù con mình có lớn thế nào, thành công thế nào, thì vẫn chỉ là một đứa con bé bỏng trong mắt bố mẹ.
    Là người theo dấu chân con từ khi con còn chưa biết gì cho đến khi con khôn lớn, cha mẹ luôn khắc ghi trong lòng từng phút giây đánh dấu sự phát triển của con. Thoáng một chốc, đứa bé ngày nào còn nằm gọn trong vòng tay mình, nay đã là những chàng trai cô gái trưởng thành, tung cánh bay đi tìm hạnh phúc cho bản thân. Đây sẽ là một khoảnh khắc vô cùng khó khăn đối với những bậc cha mẹ, vừa vui lại vừa buồn. Vui vì con đã lớn, đã có thể tự mình đứng trên đôi chân, tung cánh bay muôn phương. Buồn là vì từ nay, chúng sẽ không còn “kè kè” bên mình nữa, sẽ ít dành thời gian cho mình và mình cũng không còn là ưu tiên hàng đầu của con nữa. Có một chút ích kỷ rất riêng của người làm cha mẹ, khi lúc nào cũng luôn muốn giữ con cho riêng mình, không muốn san sẻ chúng với ai cả. Sự ích kỷ đó cũng nói lên tình thương rất đỗi thiêng liêng của cha mẹ khi sợ rằng khi con mình vào đời, nó có thể sẽ bị tổn thương, không được che chở, sẽ phải chịu đói chịu khát…
    Khi con đã tìm được một tình yêu đích thực dành cho mình, cha mẹ nào cũng hiểu rằng đã đến lúc mình phải buông tay và nhường con mình cho một người khác. Gia đình vốn dĩ là điều rất thiêng liêng nhưng tự nó không đóng kín trong chính mình. Nó mở ra với những tình yêu khác, một tình yêu dành cho người không cùng máu huyết. Kinh Thánh đã diễn tả nó qua hình ảnh “lìa bỏ cha mẹ mình để kết hợp với người bạn đời.” Thật khó để có thể đón nhận điều này, dù rằng cha mẹ nào cũng vui nếu con mình tìm thấy được hạnh phúc riêng của bản thân. Xét cho cùng, cha mẹ sinh con vào đời, nhưng đâu làm chủ cuộc sống của con. Con được cha mẹ đưa vào hiện hữu, nhưng mỗi người đều có thụ hưởng một sự sống riêng. Con đã từng là tất cả cha mẹ, và vẫn mãi luôn là tất cả, chỉ có điều, giờ đây, cha mẹ phải tập buông tay, để con được tự do dựng xây hạnh phúc riêng của mình.
    Giây phút con lập gia đình đánh dấu một chặng đường mới, nơi đó, nó tập gánh lấy một trách nhiệm chung với một người khác để tạo lập một gia đình riêng. Kể từ giờ phút đó, người con đã đồng thời trở thành người vợ hoặc người chồng, cũng hệt như mình năm xưa. Nếu nói một cách phũ phàng, cha mẹ giờ đây đã được xếp vào hàng thứ hai rồi, vợ-chồng-con cái mới nằm ở vị trí ưu tiên số một. Có lẽ vì không muốn chấp nhận sự thật này nên nhiều bậc cha mẹ đã luôn tìm cách níu kéo, khống chế, và hay can thiệp quá sâu vào gia đình riêng của con cái mình. Họ cứ cố khăng khăng cầm giữ con mình trong tay, không chịu mở lòng ra để đón nhận thêm một người con khác. Cũng chính từ đây là biết bao bi kịch, xung khắc trong gia đình xảy đến.
    Trong ý định của Tạo Hoá, cha mẹ đóng vai trò là người cộng tác để sản sinh con cái và nuôi dạy chúng thành người. Thiên Chúa đã đặt giữa cha mẹ và con cái một mối dây gắn kết bền chặt đến nỗi không ai và không gì trên thế giới này có thể cắt đứt nó. Người ta có thể chia tay người yêu, ly dị với bạn đời, chấm dứt tương quan với người khác, nhưng chẳng ai có thể làm gì để trở nên “không còn là con cái hay là cha mẹ” của ai đó được. Tương quan cha mẹ – con cái gắn liền với chính sự hiện hữu của mình, với chính mình. Chẳng ai có thể tồn tại mà không đồng thời là con của một người nào đó, bởi lẽ, ta hiện diện trên đời là nhờ được sinh ra chứ không phải tự nhiên mà có. Dù là bền chặt như vậy, tất cả đều được mời gọi để đảm nhận lấy sứ mạng của mình theo một cách thức riêng. Gia đình là nơi ta thành hình, và cũng là nơi ta khởi hành ra đi.
    Cha mẹ là người đưa ta vào đời, nuôi ta lớn khôn để rồi vẫy tay tiễn đưa ta đi vào thế giới. Có một sự cắt đứt nào đó diễn ra, và dĩ nhiên, nó luôn khiến cả hai mang những nỗi niềm bâng khuâng. Nhưng chính nhờ sự cắt đứt này mà con người được lớn lên và sự sống được tiếp tục lan toả đến tận cùng bờ cõi theo lệnh truyền của Thiên Chúa.
    Pr. Lê Hoàng Nam, SJ
     

TÌM GẶP CHÚA THẬT NHANH - LỤT KINH HOÀNG TẠI NIGERIA

  •  
    Hien Do
    Tue, Oct 18 at 8:18 PM
     
     

    Lũ lụt kinh hoàng khiến hơn 600 người Nigeria thiệt mạng

    17/10/22 15:51 GMT+77 liên quanGốc

    Đợt lũ lụt tồi tệ nhất suốt một thập kỉ nhấn chìm một phần Nigeria trong biển nước, cướp đi sinh mạng của hơn 600 người và buộc 1,3 triệu người phải rời bỏ nhà cửa.

     
     
     
    0:00/ 1:10
     
    Nam miền Bắc
     

    CNN hôm nay (17/10) dẫn thông báo của Bộ Nhân đạo Nigeria xác nhận đợt lũ lụt tồi tệ nhất một thập kỉ đang xảy ra ở quốc gia châu Phi đã cướp đi sinh mạng của ít nhất 603 người, đồng thời khiến hơn 1,3 triệu người khác phải rời bỏ nhà cửa đi lánh nạn.

    Nước lũ nhấn chìm nhiều nhà cửa ở Nigeria, buộc 1,3 triệu người đi sơ tán. Ảnh: GettyImages.

    Nước lũ nhấn chìm nhiều nhà cửa ở Nigeria, buộc 1,3 triệu người đi sơ tán. Ảnh: GettyImages.

    Tuần trước, số người thiệt mạng được công bố vào khoảng 500 người. Giới chức Nigeria cho rằng, việc chính quyền một số bang chưa có kinh nghiệm ứng phó với lũ lụt cộng với việc cơ sở hạ tầng kém phát triển ở nhiều nơi đã khiến số nạn nhân tăng lên đáng kể.

    Vẫn theo Bộ Nhân đạo Nigeria, lũ lụt cũng đã cuốn trôi hơn 82.000 ngôi nhà và gần 110.000 hecta sản xuất nông nghiệp. Đợt thiên tai đã ảnh hưởng tới 27 trong tổng số 36 bang của Nigeria. Tình trạng ngập lụt được dự báo tiếp tục kéo dài đến hết tháng 11/2022.

    Sản xuất và giao thương đình trệ vì lũ lụt ở một khu dân cư sầm uất của Nigeria. Ảnh: GettyImages.

    Sản xuất và giao thương đình trệ vì lũ lụt ở một khu dân cư sầm uất của Nigeria. Ảnh: GettyImages.

    Chương trình Lương thực Thế giới và Tổ chức Nông lương Liên Hợp Quốc hồi tháng 9/2022 cảnh báo, Nigeria thuộc nhóm 6 nước có nguy cơ cao xảy ra nạn đói thảm khốc.

    Đợt lũ lụt đang diễn ra được cho là sẽ tác động tiêu cực đến hoạt động cung cấp lương thực cũng như giá cả hàng hóa tại quốc gia này.

     

    --