BÁNH SỰ SỐNG LC- TĨNH CAO - THƯ TƯ
- Details
- Category: 4. Bánh Sự Sống
-
Thứ Tư
Lời Chúa LÀ BÁNH SỰ SỐNG
Bài Ðọc I: Gn 3, 1-10
"Dân thành Ninivê đã bỏ đàng tội lỗi".
Trích sách Tiên tri Giona.
Lời Chúa phán cùng Giona rằng: "Hãy chỗi dậy và đi đến Ninivê, một thành phố lớn, và rao giảng cho nó điều Ta sẽ nói cho ngươi". Giona chỗi dậy và đi đến Ninivê theo lời Chúa dạy. Ninivê là một thành phố lớn, rộng bằng ba ngày đàng. Giona tiến vào thành phố, đi một ngày đàng, rồi rao giảng rằng: "Còn bốn mươi ngày nữa, Ninivê sẽ bị phá huỷ". Dân thành tin tưởng nơi Chúa; họ công bố việc ăn chay và mặc áo nhặm, từ người lớn đến trẻ nhỏ.
Vua thành Ninivê nghe điều đó, liền bỏ ngai vàng, cởi áo cẩm bào, mặc áo nhặm và ngồi trên đống tro. Trong thành Ninivê, người ta rao sắc lệnh sau đây của nhà vua và các vương hầu: "Người, vật, bò, chiên, không được nếm, không được ăn uống gì hết; người và vật phải mặc áo nhặm, phải kêu to lên cùng Chúa và phải cải thiện đời sống, phải bỏ đàng tội lỗi và những điều bất chính đã phạm. Biết đâu Chúa sẽ đổi ý thứ tha, nguôi giận và chúng ta khỏi chết?" Chúa thấy việc họ làm, vì họ bỏ đời sống xấu xa, Chúa đổi ý định phạt họ, và Người không thực hiện điều đó.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 50, 3-4. 12-13. 18-19
Ðáp: Lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát, khiêm cung (c. 19).
Xướng: 1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. - Ðáp.
2) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con. - Ðáp.
3) Bởi vì Chúa chẳng ưa gì sinh lễ, nếu con dâng lễ toàn thiêu, Chúa sẽ không ưng. Của lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát, lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát, khiêm cung. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 8, 12b
Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian. Ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống".
Phúc Âm: Lc 11, 29-32
"Không ban cho dòng giống này điềm lạ nào ngoài điềm lạ của tiên tri Giona".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, thấy dân chúng từng đoàn lũ tụ tập lại, Chúa Giêsu phán rằng: "Dòng giống này là dòng giống gian ác. Chúng đòi điềm lạ, nhưng sẽ không ban cho chúng điềm lạ nào, ngoài điềm lạ của tiên tri Giona. Vì Giona đã nên điềm lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là điềm lạ cho dòng giống này như vậy. Ðến ngày phán xét, nữ hoàng phương nam sẽ đứng lên tố cáo và lên án dòng giống này, vì bà đã từ tận cùng trái đất mà đến nghe sự khôn ngoan của Salomon. Nhưng ở đây còn có người hơn Salomon. Dân thành Ninivê cũng sẽ đứng lên tố cáo và lên án dòng giống này, vì họ đã sám hối theo lời Giona giảng, nhưng ở đây còn có người hơn Giona nữa".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Sự Sống dấu lạ
Hôm nay, Thứ Tư trong Tuần 1 Mùa Chay, đề tài cho chung Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh, là "Tôi tự ý bỏ sự sống mình đi để rồi lấy nó lại" (Gioan 10:17), được phản ảnh nơi "điềm lạ về tiên tri Giona" trong bài Phúc Âm trong ngày này.
Thật vậy, "điềm lạ về tiên tri Giona" được Chúa Giêsu nói đến khi Người "thấy dân chúng từng đoàn lũ tụ tập lại" đây ám chỉ cuộc Vượt Qua của Người, một cuộc "vượt qua từ sự chết mà vào sự sống" (Gioan 5:24), từ tử giá đến phục sinh cho phần rỗi các linh hồn. Chính Chúa Giêsu cũng đã công nhận "điềm lạ về tiên tri Giona" này ám chỉ về Người trong Bài Phúc Âm hôm nay như sau:
"Dòng giống này là dòng giống gian ác. Chúng đòi điềm lạ, nhưng sẽ không ban cho chúng điềm lạ nào, ngoài điềm lạ của tiên tri Giona. Vì Giona đã nên điềm lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là điềm lạ cho dòng giống này như vậy. Ðến ngày phán xét, nữ hoàng phương nam sẽ đứng lên tố cáo và lên án dòng giống này, vì bà đã từ tận cùng trái đất mà đến nghe sự khôn ngoan của Salomon. Nhưng ở đây còn có người hơn Salomon. Dân thành Ninivê cũng sẽ đứng lên tố cáo và lên án dòng giống này, vì họ đã sám hối theo lời Giona giảng, nhưng ở đây còn có người hơn Giona nữa".
Và Bài Đọc 1 được trích từ chính Sách Tiên Tri Giona đã thuật lại "điềm lạ về tiên tri Giona" thứ tự như thế này.
Trước hết, vị tiên tri đây được lệnh Thiên Chúa sai đến Thành Ninivê để rao giảng thống hối cho thành này: "Hãy chỗi dậy và đi đến Ninivê, một thành phố lớn, và rao giảng cho nó điều Ta sẽ nói cho ngươi". Vậy điều vị tiên tri này được Thiên Chúa bảo "sẽ nói cho người biết" đây là gì, xin đọc tiếp...
Sau nữa, vị tiên tri này đã làm theo đúng như lệnh truyền của Thiên Chúa: "Giona chỗi dậy và đi đến Ninivê theo lời Chúa dạy. Ninivê là một thành phố lớn, rộng bằng ba ngày đàng. Giona tiến vào thành phố, đi một ngày đàng, rồi rao giảng rằng: 'Còn bốn mươi ngày nữa, Ninivê sẽ bị phá hủy'".
Đó, điều vị tiên tri này được Thiên Chúa bảo đó là cảnh báo cho dân thành này về hình phạt họ sẽ phải chịu trong vòng 40 ngày nữa nếu họ không biết ăn năn thống hối? Vậy trước lời cảnh báo nghiêm trọng đầy nguy biến ấy họ có đáp ứng hay chăng? Xin hãy theo dõi tiếp...
Sau hết, toàn thể thành Ninive, từ vua tới dân đều mau mắn tích cực đáp ứng một cách chân thành không thể nào ngờ được lại có thể xẩy ra như thế nơi thành phần dân ngoại, ở chỗ, họ chẳng hề biết đến vị tiên tri này là ai, có đáng tin hay chăng, trong khi đó vấn đề từ bỏ con đường tội lỗi rất ư là khó khăn, đâu phải là chuyện dễ, một sớm một chiều, hay overnight là xong, nhất là hiện tượng từ bỏ tội lỗi một cách tập thể và đồng lòng với nhau như họ đã thực hiện, lại càng không thể nào xẩy ra được như chuyện lạ bốn phương, không tin cũng phải tin, một chuyện hoàn toàn thần tiên đã thật sự xẩy ra theo trình thuật của Bài Đọc 1 hôm nay:
"Vua thành Ninivê nghe điều đó, liền bỏ ngai vàng, cởi áo cẩm bào, mặc áo nhặm và ngồi trên đống tro. Trong thành Ninivê, người ta rao sắc lệnh sau đây của nhà vua và các vương hầu: 'Người, vật, bò, chiên, không được nếm, không được ăn uống gì hết; người và vật phải mặc áo nhặm, phải kêu to lên cùng Chúa và phải cải thiện đời sống, phải bỏ đàng tội lỗi và những điều bất chính đã phạm. Biết đâu Chúa sẽ đổi ý thứ tha, nguôi giận và chúng ta khỏi chết?'"
Phải, cái lạ là ở chỗ đó, ở chỗ vị tiên tri "Giona" hoàn toàn là một con người xa lạ đối với dân thành Ninive ấy, nhưng lại "đã nên điềm lạ cho dân thành Ninivê", như chính Chúa Giêsu khẳng định trong Bài Phúc Âm hôm nay. Ở chỗ, qua lời cảnh báo của vị tiên tri này, "dân thành tin tưởng nơi Chúa; họ công bố việc ăn chay và mặc áo nhặm, từ người lớn đến trẻ nhỏ", nhờ thế mà "Chúa thấy việc họ làm, vì họ bỏ đời sống xấu xa, Chúa đổi ý định phạt họ, và Người không thực hiện điều đó".
"Điềm lạ về tiên tri Giona" là ở chỗ đấy, chứ không phải ở chỗ vị tiên tri đây ban đầu bất tuân lệnh Chúa, tìm hết cách trốn tránh sứ vụ rao giảng cho dân mà ông được Thiên Chúa sai đến, nhưng ông vẫn không thể nào thoát được lưới trời lồng lộng, vẫn bị Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan quan phòng hết mọi sự theo ý định bất biến của Ngài chặn bắt bằng một cơn bão tố, để rồi sau đó ông bị đám thủy thủy trên tầu với ông bất đắc dĩ vứt xuống biển, nơi ông bị cá mập nuốt vào bụng 3 ngày 3 đêm mới nhả ông ra trên bờ biển (xem Giona đoạn 1 và 2).
Sở dĩ trong Bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu nhắc đến Tiên Tri Giona là vì dân Do Thái nói chung và thành phần "dân chúng từng đoàn lũ tụ tập lại" chung quanh Người bấy giờ nói riêng, cứ đòi phải thấy một điềm lạ nào đó từ Người mới tin vào Người, nhưng Người đã vừa trách móc họ thiếu lòng tin lại đồng thời cũng hứa chiều lòng họ như sau: "Dòng giống này là dòng giống gian ác. Chúng đòi điềm lạ, nhưng sẽ không ban cho chúng điềm lạ nào, ngoài điềm lạ của tiên tri Giona".
Điều Chúa Giêsu hứa với chung dân Do Thái qua thành phần đám đông đang ở với Người bấy giờ đó là lời hứa liên quan đến chính bản thân Người, ở chỗ, như Người đã cho họ biết rõ thêm như sau: "Vì Giona đã nên điềm lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là điềm lạ cho dòng giống này như vậy".
Có nghĩa là cho dù dân thành Ninive vẫn tỏ ra ăn năn thống hối sau khi nghe lời cảnh báo của một nhân vật lạ hoắc là tiên tri Giona, không cần phải cứ thấy điềm lạ mới chịu tin như dân Do Thái, một dân tộc có một bản chất cố hữu bất khả thiếu và bất khả thay đổi của họ đó là thích điềm lạ và cái gì cũng căn cứ vào điềm lạ, hoàn toàn ngược với dân Hy Lạp thiên về lý trí và triết học, vì điềm lạ đối với dân Do Thái như là dấu chỉ thần linh, dấu chỉ thần hiển của Thiên Chúa, dấu chỉ chắc chắn nhất và bảo đảm nhất cho niềm tin tưởng siêu nhiên của họ.
Tuy nhiên, Vị Thiên Chúa hóa thân làm người còn tiếp tục hội nhập văn hóa với loài người, với từng dân tộc, để tỏ mình ra cho họ, nhờ đó giúp cho họ có thể dễ dàng tin tưởng vào Người mà được cứu độ. Bằng không, họ sẽ bị trừng phạt xứng với tội lỗi của họ bởi họ không tin tưởng vào một Đấng còn cao trọng hơn cả Giona nữa, như Người cảnh báo họ trong Bài Phúc Âm hôm nay: "Dân thành Ninivê cũng sẽ đứng lên tố cáo và lên án dòng giống này, vì họ đã sám hối theo lời Giona giảng, nhưng ở đây còn có người hơn Giona nữa". Dân Thành Ninive "tố cáo và lên án dòng giống" Do Thái là dân của Chúa ở chỗ họ là dân ngoại mà tin vào vị tiên tri Do Thái và đáp ứng lời đe dọa của Chúa qua vị này trong việc hết lòng và hết mình ăn năn thống hối, trong khi dân Do Thái lại không lắng nghe và đáp ứng chính Đấng Thiên Sai của họ.
Đúng thế, "Giona đã nên điềm lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là điềm lạ cho dòng giống này như vậy". Ở chỗ nào? Ở chỗ, cho dù họ không chịu tin vào Người cho đến khi thấy được một điềm lạ nào đó từ Người, mà Người vẫn có thể làm cho họ tin vào Người, khi chính Người trở nên điềm lạ cho họ.
Điềm lạ về Chúa Giêsu Kitô cho giòng dõi gian ác này đây phải chăng là như thế này: cho dù Người có thể xuống khỏi thập giá nhưng Người vẫn không làm, trái lại, "tuy là con, nhưng Người đã biết tuân phục nơi những gì phải chịu để khi hoàn thành Người trở nên căn nguyên cứu độ cho tất cả những ai tín phục Người" (Do Thái 5:8-9).
Bởi vì, theo Người, chỉ còn một cách duy nhất đó thôi mới chứng thực Người là Đấng Thiên Sai của dân Do Thái, Đấng được Cha là Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ sai đến để giải thoát họ, không phải khỏi quyền lực chính trị mà khỏi quyền lực tội lỗi và sự chết. Đó là lý do Người đã khẳng định về bản thân Người là điềm lạ cho dân của Người như sau: "Khi nào quí vị treo Con Người lên, quí vị sẽ nhận ra Tôi là ai và biết rằng Tôi không tự ý làm gì hết" (Gioan 8:28). Kitô hữu nào chấp nhận "điềm lạ Giona" nơi Chúa Kitô thì như Chúa Kitô, họ cũng sẽ trở thành "điềm lạ" cho những ai chưa nhận biết Người, bằng các chứng từ thần linh siêu việt của họ, vượt trên bản tính tự nhiên thấp hèn, nhất là đối với thành phần tha nhân xúc phạm đến họ mà họ vẫn tha thứ và yêu thương, như Chúa Kitô truyền dạy và làm gương.
Nếu lời giảng tiên khởi của Chúa Giêsu khi Người mới bắt đầu xuất thân tỏ mình ra là "Triều đại Thiên Chúa đã đến. Hãy hoán cải và tin vào phúc âm" (Marco 1:15), thì việc Chúa Giêsu tỏ mình ra cho dân Do Thái như là "Triều đại Thiên Chúa đã đến", đến như một điềm lạ trên thập tự giá, nhờ đó họ "hoán cải và tin vào Người", hay tin vào Người mà hoán cải cũng thế.
Bởi vậy, tác dụng đầu tiên của việc tỏ mình ra của Chúa Kitô cho dân Do Thái như một điềm lạ đó là làm cho họ thống hối ăn năn như dân Thánh Ninive về tội lỗi của họ bằng tất cả tâm hồn của họ. Và việc tỏ mình ra của Chúa Kitô như một điềm lạ trên thập tự giá là tác động Người "tự bỏ sự sống mình đi" nhưng Người đã "lấy nó lại" ở chỗ đã làm cho sự sống đó phát sinh nơi những ai "tín phục" Người, như tâm tình của Bài Đáp Ca sau đây bày tỏ:
1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác.
2) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con.
3) Bởi vì Chúa chẳng ưa gì sinh lễ, nếu con dâng lễ toàn thiêu, Chúa sẽ không ưng. Của lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát, lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát, khiêm cung.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên
Ngày 09: Thánh Phanxica Rômana, quả phụ nữ tu
1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ
Thánh nữ Francoise (Francesca di Bussi di Leoni) được gọi là người Rôma hay là người “rất Rôma trong số các vị thánh”, chỉ vì Bà được sinh ra trong một gia đình quí tộc Rôma và sống suốt đời tại đây, vào lúc Giáo Hội Đông Phương ly khai khỏi Giáo Hội Tây Phương (1378-1417) và bệnh dịch tàn phá thành phố vào năm 1413-1414.
Được rửa tội và thêm sức tại đại thánh đường Saint-Agnès, kết hôn vào lúc 13 tuổi với quận công Lorenzo Ponziani, có được 3 người con. Francoise sống với chồng 37 năm, cho đến lúc ông qua đời. Bà thật là một mẫu gương làm vợ và làm mẹ.
Dù rất tất bật trong gia đình, Francoise cùng với chị dâu và cũng là bạn Vanozza, thích cầu nguyện, thực hành sám hối, viếng nhà thờ và các nhà thương, để chăm sóc người nghèo và bệnh nhân. Theo Hạnh thánh, Bà luôn làm sự lành để đối lại sự ác, luôn tạo việc thiện cho những người nói xấu, phê bình và chăm chít đời sống của Bà.
Khi chồng qua đời, Francoise bỏ lâu đài Transtévère để chia sẻ đời sống với các Người “Tận hiến cho Đức Maria – Oblates de Marie” mà Bà tập họp lại, theo luật Dòng thánh Bênêđicto, trong nhà Tor de’ Specchi tại Rôma. Các Bà đạo đức này sống cuộc đời khổ hạnh và phục vụ các công việc bác ái.
Được Thiên Chúa ban cho nhiều hồng ân đặc biệt, ngất trí và thị kiến, Francoise sống rất mật thiết với Thiên thần giữ mình của Bà. Bà qua đời ngày 09.03.1440 khi đến nhà người con Battista đang đau. Những lời cuối cùng Bà nói với những người con tinh thần của Bà: “Hãy trung thành cho đến lúc chết. Satan sẽ tấn công các chị cũng như đã tấn công tôi, nhưng không có thử thách nào dữ tợn cả, nếu chúng ta trung thành với Chúa Kitô”.
Được phong thánh vào năm 1608, Bà được chọn làm thánh quan thầy của các Bà đã lập gia đình, các Bà goá và các người lái xe. Mỹ thuật trình bày Bà cùng với Thiên thần giữ mình và mang một thúng thực phẩm.
2. Thông điệp và tính thời sự
Người Rôma rất kính trọng thánh nữ Francoise vì đã có “một đời sống gương mẫu trong hôn nhân, sau đó là đời sống của một nữ tu”; vì thế chúng ta cầu xin Chúa giúp chúng ta theo gương thánh nữ Francoise, trung thành phục vụ “trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống”.
a. Trong đời sống hôn nhân và gia đình, Francoise đã biết những thử thách: cái chết của 2 người con còn nhỏ, lâu đài bị cướp phá và mất của cải, chồng bị thương nặng và bị lưu đày, con trai bị bắt làm con tin...Dù vậy, Bà không bị lay chuyển, luôn trung thành với chồng, Bà đã đáp ơn gọi làm vợ và làm mẹ một cách trung thành như trong các công tác bác ái giữa một thành phố bị chiến tranh và ghẻ chóc thử thách. Ngay trong lâu đài bị cướp phá, Bà lập một nhà thương, và khi tài sản không còn nữa, Bà đi ăn xin để giúp người nghèo và bệnh nhân.
b. Sự phong phú nội tâm thúc đẩy Bà đến với kẻ khác, và đồng thời rất nhiều người được lôi kéo đến với Bà.
Hạnh sử thánh Francoise Romaine được Phụng Vụ Giờ Kinh trích dẫn có ghi:
- “Thiên Chúa không chọn Bà để Bà trở thành một vị thánh cho chính mình, nhưng để Bà phục vụ cho những ân sủng mà Thiên Chúa ban cho Bà, để cứu giúp tinh thần và thể xác người đồng loại”.
- “Thiên Chúa đã gia ân cho thánh nữ Francoise với một sự dễ thương mà mọi người khi tiếp xúc với Bà, có thể cảm nghiệm tình yêu của Bà và sẵn sàng theo lời chỉ dẫn của Bà”.
- Tinh thần bác ái là động lực cho thánh nữ, thúc đẩy Bà đi tìm các bệnh nhân đem về nhà mình hay đến các nhà thương: “Bà làm giảm cơn khát, dọn giường, băng bó các vết thương cho họ..”.
- Thánh nữ lo lắng việc chăm sóc tinh thần của bệnh nhân. Người ta thấy Bà đi tìm các linh mục và dẫn các ngài đến với bệnh nhân đã được chuẩn bị để lãnh nhận các bí tích sám hối và Thánh Thể.
c. Sứ điệp của thánh nữ Francoise đưa đến cho mọi người hôm nay, có thể tóm lại trong câu đáp của Phụng Vụ Giờ Kinh:
- Chỉ có tình yêu mới có những hoa trái công chính.
- Hãy để cho tình yêu theo đuổi trong anh em những công trình của nó.
- Hãy mở mắt ra cho ánh sáng tình thương.
https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-09-03-thanh-phanxica-romanaqua-phu-nu-tu-1384%E2%80%931440-43426
Phanxica thuộc vào một gia đình quí tộc ở Bussi de Leoni. Nhưng Ngài đã sinh ra và sống ở Roma. Từ lúc 6 tuổi Ngài đã thực hành sám hối, muốn vào tu lúc 11 tuổi. Cha Ngài thấy đây chỉ là tưởng tượng của con nít và năm sau đã gả Ngài cho lãnh Chúa trẻ trung Lorenzo di Ponziani. Người vợ trẻ sẽ dẫn đắt chồng mình theo đường trọn lành.
Phanxica một thánh nữ tươi đẹp. Sống giữa xã hội hào nhoáng Ngài tỏ ra rất hòa nhã dịu dàng. Ngài giữ kín những khổ hạnh của mình. Có ai biết rằng: áo nhặm dưới y phục lộng lẫy của Ngài đã làm Ngài mang thương tích. Ngài dậy sớm để giờ cầu nguyện khỏi bị ngăn trở, Varozza, người em dâu, cùng chia sẻ lý tưởng bác ái với Ngài. Hai người cùng hồi tâm trong một cái hang ở cuối vườn. Họ phục vụ các bệnh nhân tại nhà thương và giúp đỡ những người cùng khốn. Bà mẹ chồng nặng tinh thần thế tục thấy thế nên giận dữ. Nhưng con bà, người chồng trẻ đã trả lời:
- Sao lại trách họ vì những thói quen đạo đức ấy? Vả lại thói quen ấy có ngăn trở gì tới việc bổn phận của họ đâu?
Thực vậy, Phanxica luôn sẵn sàng bỏ mọi sự để các bổn phận của một quản gia khỏi bị suy suyển gì. Một mẫu chuyện cho thấy Thiên Chúa chúc lành cho Ngài như thế nào. Phanxica đang cầu nguyện. Người ta tới kêu. Ngài mau mắn bỏ sách đó và trở lại sau khi phục vụ xong. Lần thứ nhất, lần thứ hai... bốn lần liên tiếp như vậy, Ngài đều bình thản bỏ dở việc cầu nguyện. Lần thứ năm Ngài trở lại và thấy sách kinh có dòng chữ vàng. Người ta không hề giã từ Chúa khi phục vụ tha nhân và hiến mình phục vụ cũng là cầu nguyện.
Cha giải tội và nhà chép sử thánh Phanxica cho biết tình trạng được ơn thần bí của thánh nữ. Thiên thần của Ngài chiếu tỏa một ánh sáng để chỉ cho Ngài biết Thiên Chúa thỏa lòng đối với Ngài. Cũng thế, dù khi lỗi nhẹ, thiên thần liền đánh vào Ngài và thánh nữ tạ ơn Thiên Chúa đã giữ cho mình khỏi rơi vào mưu chước quỉ ma. Với thiên thần, Ngài nên mạnh mẽ. Một lần có sức mạnh quỉ ma đẩy Ngài xuống sông Tibre, thiên thần cứu Ngài lên bờ.
Sau khi mẹ chồng qua đời, người thiếu phụ nắm quyền quản trị nhà họ Ponziani. Ngài coi gia nhân như anh chị em được gọi để chia sẻ nước Thiên Chúa với Ngài, nếu họ ngã bệnh Ngài tận tâm săn sóc họ. Vào thời đói kém, khi đã cho hết những gì thuộc quyền mình, Ngài ăn xin để giúp đỡ người thiếu thốn, ngày kia, Ngài gọi Varozza lên kho lẫm thu lúa mì còn sót lại trong rơm. Lorenzo theo họ lên coi, đã thấy đống lúa vàng thay vì rơm rạ, một phép lạ xảy ra tương tự tại một thùng rượu không. Đầy thán phục, Lorenzo đã để cho người vợ thánh thiện được tự do xếp đặt cuộc sống mình. Thế là Phanxica bán mọi thứ sang trọng, và chỉ mặc y phục khiêm tốn, lại còn hãm mình nghiêm ngặt hơn.
Khi chiến đấu cho Đức Thánh Cha, Lorenzo bị trọng thương và được mang về nhà khi đang hấp hối. Thánh nữ đã thành công trong việc làm cho ông sống lại. Faluzzô, em Ngài, bị bắt tù, người ta cho Ngài biết phải nộp con trưởng Gioan Tẩy giả của Ngài làm con tin, nếu không Paluzzô sẽ bị giết chết. Phanxica hoảng hốt đem con đi giấu. Nhưng Don Antoniô là cha giải tội chặn đường lại nói:
- Con làm gì thế? Hãy đưa đứa con cho người đòi nó.
Phanxica vâng lời để cứu em chồng, rồi vào nhà thờ quì khóc trước tượng Đức Trinh Nữ. Còn đang cầu nguyện thì viên sĩ quan địch mang đứa bé trả lại, vì ngựa ông không chịu đi.
Tiếp đến là những biến cố thảm khốc. Roma bị xâm chiếm và bị cướp phá. Lorenzzô phải trốn đi để lại trách nhiệm cho vợ mình, Phanxica ở lại, với hai con Evangêlista và Anê. Cơn dịch xẩy ra, Evangêlista ngã bệnh, lúc chết cậu nói với mẹ:
- Mẹ đừng khóc, con sẽ được hạnh phúc vì này Thiên thần đến tìm con.
Một đêm kia Ngài cầu nguyện và thấy người con hiện ra báo tin mình đang ở giữa các Thiên thần và cho biết mình sẽ đến tìm đứa em gái, cho nó chia sẻ hạnh phúc. Một niềm vui siêu nhiên hòa lẫn với các đớn đau loài người. Ngài ngã bệnh và các thị kíến về hỏa ngục làm Ngài thêm khổ cực. An bình trở lại Roma. Lorenzô trở về chứng kiến những tang tóc và cướp phá. Phanxica đau đớn trong lòng, nhưng vẫn tìm lời trấn an đầy tha thứ. Ngài hòa giải thù địch với người chồng chỉ còn biết sống để chia sẻ bước tiến thiêng liêng của vợ mình.
Phanxica cũng lôi kéo các phụ nữ Roma vào việc giúp đỡ cho những tình cảnh khốn khổ do chiến tranh để lại. Ngài tụ họp vào một nhà những bà cùng một lý tưởng bác ái và khổ hạnh. Đây là thời đầu của dòng những người tận hiến cho Đức Maria. Gọi như thế vì khi tự hiến họ dùng từ ngữ: “Con hiến mình” thay vì tuyên đọc lời khấn. Trong số những cuộc trở lại Phanxica tạo được, có cuộc trở lại của vợ của Gioan Tẩy giả, con Ngài.
Sau bốn năm hoà hiệp, Phanxica mất chồng. Ngài tới quì trước cửa tu viện mình đã thiết lập. Đi chân không. đeo giây vào cổ, Ngài xin nhập dòng.
Gioan Tẩy giả ngã bệnh, Phanxica bỏ dòng về thăm, Ngài đã bị lên cơn sốt và đã qua đời chính tại nhà mình. Các nữ tu vây quanh Ngài để nghe những lời khuyên cao cả:
- Hãy trung tín đến chết, Satan sẽ tấn công các chị như đã tấn công tôi. Nhưng không thử thách nào quá độc dữ nếu các chị trung thành với Chúa Giêsu.
Nói lời cuối cùng xong, cửa trời mở ra, thiên thần của Ngài ra dấu kêu gọi Ngài theo.
Ðức Giáo Hoàng Phaolô V đã tôn ngài lên bậc Hiển Thánh năm 1608.
Thánh Phanxica được chọn làm thánh bảo trợ của các phụ nữ đã lập gia đình và ở nên góa bụa.
http://tonggiaophansaigon.com/baiviet-tintuc/20100308/4186
http://giaophanvinhlong.net/thanh-phancica-romana-nu-tu-13841440.html