NHỮNG BÀI VỀ ĐỨC MẸ - MẦU NHIỆM CỨU ĐỘ

 

  •  
    Tinh Cao
     
    Tue, Oct 6 at 3:43 PM
     
     

    Thứ Tư CN27TN-A

     

    CÙNG MẸ MARIA BẠN VÀ TÔI LẮNG NGHE Lời Chúa

     

     

    Bài Ðọc I: (Năm II) Gl 2, 1-2. 7-14

    "Các đấng đã nhận biết ơn đã ban cho tôi".

    Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.

    Anh em thân mến, mười bốn năm sau, tôi lại lên Giêrusalem cùng với Barnaba và có đem Titô theo. Tôi đã theo ơn mạc khải mà lên đó, và tôi đã trình bày với các đấng đó về Tin Mừng mà tôi rao giảng nơi các dân ngoại, tôi bàn hỏi riêng với những bậc vị vọng, vì e rằng mình đang bôn tẩu hoặc đã bôn tẩu luống công chăng.

    Trái lại, khi các đấng ấy thấy rằng tôi được uỷ nhiệm rao giảng Tin Mừng cho người không chịu cắt bì, cũng như đã uỷ nhiệm cho Phêrô rao giảng cho những người đã chịu cắt bì, (vì Ðấng đã ban cho Phêrô làm Tông đồ cho những người đã chịu cắt bì, cũng đã ban cho tôi làm Tông đồ lo cho các dân ngoại), và khi đã nhận biết ơn đã ban cho tôi, thì Giacôbê, Kêpha và Gioan, là những vị được kể như cột trụ, đã bắt tay tôi và Barnaba, tỏ tình thông hảo. Thế là chúng tôi đi sang các dân ngoại, còn các đấng thì đi đến với những người đã chịu cắt bì. Bấy giờ chúng tôi chỉ còn phải nhớ đến những người nghèo khổ, và đó là chính điều tôi đã định tâm thi hành.

    Nhưng khi Kêpha đến Antiôkia, tôi đã phản đối ông ngay trước mặt, vì ông làm điều không phải. Vì chưng trước khi mấy người bên Giacôbê đến, thì ông vẫn dùng bữa với những người dân ngoại, nhưng khi những người ấy đến, thì ông lẩn lút và tự lánh mặt đi, bởi sợ những người thuộc giới cắt bì. Những người Do-thái khác đều giả hình như ông, thậm chí cả Barnaba cũng bị lôi cuốn theo sự giả hình của họ. Nhưng khi thấy họ không thẳng thắn sống theo chân lý Tin Mừng, tôi đã nói với Kêpha trước mặt mọi người rằng: "Nếu ông là Do-thái, mà còn sống theo thói người dân ngoại, chứ không theo thói người Do-thái, thì lẽ nào ông bắt ép người dân ngoại phải theo thói người Do-thái sao?

    Ðó là lời Chúa.

     

    Ðáp Ca: Tv 116, 1. 2

    Ðáp: Hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian (Mc 16, 15).

    Xướng: 1) Toàn thể chư dân, hãy khen ngợi Chúa! Hết thảy các nước, hãy chúc tụng Người! - Ðáp.

    2) Vì tình thương Chúa dành cho chúng ta thực là mãnh liệt, và lòng trung thành của Chúa tồn tại muôn đời. - Ðáp.

     

    Alleluia: Mt 4, 4b

    Alleluia, alleluia! - Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. - Alleluia.

     

    Phúc Âm: Lc 11, 1-4

    "Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện".

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

    Ngày kia, Chúa Giêsu cầu nguyện ở một nơi. Khi Người cầu nguyện xong, có một môn đệ thưa Người rằng: "Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông". Người nói với các ông: "Khi các con cầu nguyện, hãy nói:

    "Lạy Cha, nguyện danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ".

    Ðó là lời Chúa.

     

     

    image.png

    CẢM NGHIỆM SỐNG VÀ CHIA SẺ Lời Chúa

     

    Bóng tối không thể át được ánh sáng

     

     

    Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, Thứ Tư Tuần XXVII Thường Niên, tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua, chẳng những liên tục về bố cục theo đoạn và câu mà còn liên tục về cả nội dung của hai bài Phúc Âm này nữa. Ở chỗ, nếu bài Phúc Âm hôm qua liên quan đến đời sống nội tâm thì bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến tinh thần cầu nguyện. 


    Đúng thế, Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay thuật lại rằng: "Ngày kia, Chúa Giêsu cầu nguyện ở một nơi. Khi Người cầu nguyện xong, có một môn đệ thưa Người rằng: 'Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông'". 

     

    Thánh ký Luca không cho chúng ta biết rõ tên của người "môn đệ" nào trong 12 tông đồ hay trong 72 môn đệ đã xin Người dạy cho chung các vị cầu nguyện, mà là cầu nguyện theo kiểu của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả dạy cho các môn đệ của ngài. Chúng ta có thể suy đoán, người "môn đệấy một là Tông Đồ Anrê hai là Tông Đồ Philiphê, hai môn đệ của vị tiền hô này đã đến xem chỗ Người ở, ba là Nathanael / Bartholomeo và bốn là Simon / Phêrô là 2 người được hai vị đến trước và về rủ đến sau (xem Gioan 1:35-51). 

     

    Chúng ta ở đây không biết Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã dạy các môn đệ cầu nguyện của ngài như thế nào mà môn đệ này đã cảm thấy hay đến độ xin Chúa Giêsu dạy cho họ như thế hay hơn thế. Chỉ biết rằng, đích thân Chúa Giêsu đã đáp ứng lời yêu cầu chính đáng của người môn đệ đại diện ấy bằng cách cống hiến cho môn đệ của mình công thức cầu nguyện cùng Cha của Người như sau: 

     

    "Khi các con cầu nguyện, hãy nói: 'Lạy Cha, nguyện danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ'". 

     

    Chúng ta cũng không biết kinh nguyện trên đây của Chúa Giêsu có phải là chính tâm nguyện chính yếu và liên lỉ của Người đối với Cha của Người, những tâm nguyện được Người bộc phát và bày tỏ ra cùng Cha của Người mỗi lần Người cầu nguyện cùng Cha của Người hay chăng? Nhưng chúng ta chắc chắn một điều rằng nếu những lời cầu nguyện ấy không phải là những gì hay nhất, tuyệt vời nhất và đẹp lòng Cha của Người nhất, vì không ai biết Cha Người bằng Người, thì Người đã không dạy cho các môn đệ của Người, không dạy cho chúng ta. 

     

    Thế nhưng, nếu cho rằng những lời cầu ấy là chính tâm nguyện của Chúa Giêsu ấp ủ đối với Cha của Người thì phần "nguyện" đầu của lời cầu mà chúng ta vẫn gọi là Kinh Chúa Dạy hay Kinh Lạy Cha này là những gì có thể khả chấp: "Lạy Cha, nguyện danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến", nhưng còn phần "xin" sau đó dường như không hợp với Người, không xứng với Người, Đấng không cần những vấn đề thuộc hạ giới này của loài thuần nhân như chúng ta: "Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ".  

     

    Tuy nhiên, ở đây, Chúa Kitô cầu nguyện với tư cách là một Con Người, (chứ không phải với tư cách là một Vị Thiên Chúa), một Con Người cầu nguyện thay con người, cầu nguyện với con người và cầu nguyện cho con người. Vì là Con Người, Người cũng cần "xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày" là biết làm theo và chu toàn ý muốn Cha là Đấng đã sai Người (xem Gioan 4:34). Vì Người là Đấng gánh tội trần gian và đền tội cho trần gian mà Người cũng xin Cha "tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con", ở chỗ tha nợ cho Người cũng là tha nợ cho đồng loại tội nhân của Người, như Người đã tha nợ cho những kẻ lầm lẫn không biết việc mình làm khi ra tay sát hại Người (xem Luca 23:34). Vì là Đấng đã hóa thân làm người, cũng có ý muốn riêng theo bản tính loài người mà Người cũng "xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ" là khuynh hướng luôn tìm theo ý riêng mình hơn là ý muốn của Thiên Chúa, một ý muốn tối cao nhưng vô cùng oan khiên khắc nghiệt của Thiên Chúa đối với ý riêng của con người.

     

    Nếu cầu nguyện là ở cõi lòng hơn là môi miệng (xem Mathêu 15:8), thì Kinh Lạy Cha hay Kinh Chúa Dạy các môn đệ như các vị xin Người trong bài Phúc Âm hôm nay thực sự bao gồm tất cả tấm lòng của người cầu nguyện, được bày tỏ ra bằng các ước nguyện, và trong các ước nguyện ấy thì trên hết và trước hết là ước nguyện cho "danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến". Bài Đọc thứ 1 hôm nay cho chúng ta thấy xẩy ra một sự kiện đáng tiếc trong thời Giáo Hội sơ khai, liên quan đến vị tông đồ lãnh đạo đoàn chiên Chúa là Phêrô, vị đã được tông đồ Phaolô, như Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy, công khai chỉnh sửa vì khuynh hướng của vị trưởng tông đồ đoàn này đã "sa chước cám dỗ" sợ hãi , nên đã tỏ ra những tác hành cùng phản ứng có tính cách "phản kitô", không còn nguyên ước nguyện tinh tuyền mong muốn cho "danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến".

     

    "Khi Kêpha đến Antiôkia, tôi đã phản đối ông ngay trước mặt, vì ông làm điều không phải. Vì chưng trước khi mấy người bên Giacôbê đến, thì ông vẫn dùng bữa với những người dân ngoại, nhưng khi những người ấy đến, thì ông lẩn lút và tự lánh mặt đi, bởi sợ những người thuộc giới cắt bì. Những người Do-thái khác đều giả hình như ông, thậm chí cả Barnaba cũng bị lôi cuốn theo sự giả hình của họ. Nhưng khi thấy họ không thẳng thắn sống theo chân lý Tin Mừng, tôi đã nói với Kêpha trước mặt mọi người rằng: 'Nếu ông là Do-thái, mà còn sống theo thói người dân ngoại, chứ không theo thói người Do-thái, thì lẽ nào ông bắt ép người dân ngoại phải theo thói người Do-thái sao?'"

     

    Thánh Phaolô đã phải cấp thời lên tiếng hành động như thế, không nể nang, không chần chờ, là để tránh cho dân ngoại, thành phần ngài được úy thác cho sứ vụ đặc biệt rao giảng, cũng có mặt bấy giờ, khỏi bị tác hành và phản ứng của vị lãnh đạo giáo hội Chúa Kitô tác hại trầm trọng. Nhờ đó, chư dân mới có thể thấy được đâu là chân lý, đâu là vị Thiên Chúa của Kitô giáo, vị Thiên Chúa có tính cách "công giáo", tính cách phổ quát toàn cầu, và cũng nhờ đó, họ mới có thể vang lên những lời ở 2 cầu đầu của Thánh Vịnh 116 trong Bài Đáp Ca hôm nay:

    1) Toàn thể chư dân, hãy khen ngợi Chúa! Hết thảy các nước, hãy chúc tụng Người!

    2) Vì tình thương Chúa dành cho chúng ta thực là mãnh liệt, và lòng trung thành của Chúa tồn tại muôn đời.

     

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên

     

    TN.XXVIIL-4.mp3 

     

     LeMeManCoi.mp3  

     

     

    Ngày 07 tháng 10

    Đức Mẹ Mân Côi

    lễ nhớ bắt buộc

    Tiểu sử 
    Ngày 7 tháng 10 năm 1571, Tây Phương thoát khỏi sự đe doạ của quân Thổ Nhĩ Kỳ nhờ chiến thắng ở vịnh Lê-pan-tô. Người ta cho rằng chiến thắng đó là kết quả của Kinh Mân Côi. Ngày nay, mừng lễ này không có nghĩa là mừng biến cố xa xưa đó, nhưng là nhắc nhở việc suy niệm các mầu nhiệm Nhập Thể, Thương Khó và Phục Sinh vinh hiển của Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa, cũng như khám phá ra vị trí của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a trong mầu nhiệm Cứu Độ.

     

    Bài đọc 2

    Phải suy gẫm các mầu nhiệm Cứu Độ

     

    image.png

     

     

    Trích bài giảng của thánh Bê-na-đô, viện phụ.

    Vì Đấng Thánh từ lòng bà sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Ôi nguồn mạch của sự khôn ngoan ! Ôi Ngôi Lời của Chúa Cha trên chốn cửu trùng ! Lạy Trinh Nữ thánh thiện, nhờ Mẹ làm trung gian, Ngôi Lời nay sẽ thành xác phàm, để Đấng nói : Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy, cũng nói : Thầy bởi Thiên Chúa mà ra và Thầy đã đến. Kinh Thánh viết : Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Suối đã vọt ra rồi nhưng mới chỉ ở nơi mình thôi. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa ngự trong ánh sáng siêu phàm.

    Từ đầu, Chúa đã nói : Ta chỉ nghĩ đến chuyện mang lại bình an, chứ không nghĩ đến chuyện gây ra phiền muộn. Nhưng tư tưởng của Chúa thì ở trong Chúa, và Chúa nghĩ gì, chúng con đâu có biết. Quả thật, nào ai biết được tâm tư của Chúa hay ai làm cố vấn cho Người ?

    Vì thế, Đấng nghĩ đến bình an đã xuống thế để thực hiện bình an : Ngôi Lời đã thành xác phàm và ở giữa chúng ta rồi. Nhờ đức tin, Người hoàn toàn ở trong tâm hồn chúng ta, Người ở trong trí nhớ của chúng ta, Người ở trong tư tưởng và thậm chí Người còn đi vào tận trí tưởng tượng của chúng ta nữa. Trước kia, con người có thể nghĩ gì về Thiên Chúa, có chăng là một hình ảnh do lòng con người tạo ra ? Khi đó, Thiên Chúa là Đấng không thể hiểu được, không thể tới gần được, không thể nhìn thấy hay suy tưởng được ; nhưng bây giờ Người đã muốn cho người ta hiểu, muốn cho người ta thấy, muốn cho người ta suy tưởng.

    Bạn hỏi : Bằng cách nào vậy ? Thưa qua việc Người nằm trong máng cỏ, ngủ yên trong lòng Đức Trinh Nữ, rao giảng trên núi, thức thâu đêm cầu nguyện ; qua việc Người bị treo và chết rũ trên thập giá, thoát khỏi tử thần và nắm quyền trong âm phủ ; qua việc ngày thứ ba Người sống lại, tỏ cho các Tông Đồ thấy các dấu đinh là biểu hiệu chiến thắng, và cuối cùng lên trời cao thẳm trước mắt các ông.

    Trong các mầu nhiệm nói trên, có mầu nhiệm nào lại không gợi cho chúng ta những ý tưởng chân thật, đạo đức và thánh thiện chăng ? Khi tôi suy tưởng bất cứ mầu nhiệm nào trên đây là tôi suy tưởng về Thiên Chúa và qua tất cả những mầu nhiệm đó, chính Người là Thiên Chúa của tôi. Suy gẫm những mầu nhiệm ấy, tôi cho là khôn ngoan. Nhớ lại những mầu nhiệm ấy, tôi cho là sáng suốt. Những mầu nhiệm ấy ngọt như những trái hạnh đào trổ sinh từ cây gậy của tư tế A-ha-ron. Sự ngọt ngào đó, Đức Ma-ri-a đã kín múc từ trời cao và đổ xuống tràn trề trên chúng ta.

     

    Lời nguyện 

    Lạy Chúa, Chúa đã dùng lời thiên sứ truyền tin mà cho chúng con biết thật Đức Ki-tô, Con Chúa, đã xuống thế làm người. Xin đổ ơn thánh đầy lòng chúng con, để nhờ công ơn Con Chúa chịu khổ hình thập giá, và nhờ lời Thánh Mẫu Ma-ri-a chuyển cầu, Chúa cũng cho chúng con được sống lại hiển vinh. Chúng con cầu xin

     

     

    --