THAM, do Phạn ngữ (Kama, Mdhymagama). Có nghĩa là ham muốn thái quá. HIỂM là độc ác. Nói chung THAM HIỂM là lòng quá ham muốn về vật chất, như: danh, lợi, tình…và hành động ác độc để tóm thâu các thứ ấy về mình. Bởi nó là một tội ác trong Ý nghiệp, nên gọi là lòng tham hiểm. Lòng tham ấy chẳng hề biết chán, càng được thì càng ham. Kẻ tham hay ganh ghét những người thành tựu, sợ sệt những người có thế lực hơn mình, lấy làm sầu khổ khi chẳng đắc chí.
Đức Thầy bảo:
“Biết sao đầy được túi tham,
Không ngăn không đáy càng làm không kiêng”.
Thêm nữa, kẻ có lòng tham thường hay ganh đua đố kỵ với những người có tài đức hơn mình. Cho nên tánh tham lam thường đi cập với tật đố.
Ngoài ra, vì lòng ham muốn quá độ, không biết “tri túc thường lạc”, nên lòng tham chính là hột giống, là nguyên nhân làm cho chúng sanh luân hồi trong sáu nẻo, từ vô thỉ tới nay chưa thoát ly ra được.
Kinh Phật thường liệt nó là một trong Tam độc hay ba món phiền não căn bản, đó là Tham, Sân, Si. Nó cũng là thứ đứng đầu trong năm cái ngu độn (Ngũ độn sử: Tham, sân, si, mạn, nghi).
Tục ngữ thường nói “Tham thì thâm, dầm thì đen”.
Đức Phật thường cho biết:“Lòng ham muốn là nguồn gốc của mọi thống khổ ở thế gian, cũng là nguyên nhân của sự luân hồi sanh tử”. Và “Không có lửa nào bằng lửa tham, không có tội nào bằng lòng đố kỵ ganh ghét”.
Trong Kinh Thánh, Đức Chúa Trời cũng cho biết THAM là một trong những trọng tội. Có nhiều đoạn nói rõ về THAM như sau:
-“Kẻ tham lam phỉ báng và chà đạp lên Thượng Đế” (Thánh vịnh 10:3).
-“Hãy canh chừng mọi hình thức của tham lam; đời không phải chỉ là nhiều sở hữu” (Luca 12:15) v.v…
Còn trong “KHỔNG TỬ LUẬN NGỮ” bài “Phú Quý như phù vân” Đức Khổng Tử có viết: “Phạn sơ tự, ẩm thủy, khúc quãng nhi chẩm chi, lạc diệc tại kỳ trung hỉ. Bất nghiã nhi phú thả quý, ư ngã như phù vân”.
- Dịch nghĩa: Khổng Tử nói: “Ăn gạo xấu, uống nước lã, co cánh tay mà gối đầu, trong cảnh đó cũng có cái vui. Làm điều bất nghiã mà được giàu sang thì ta coi như mây nổi”.
Thêm vào đó Ngài còn viết:“Quân tử hữu tam úy: Thiếu chi thời, huyết khí vị định, giới chi tại sắc; cập kỳ tráng dã, huyết khí phương cương, giới chi tại đấu; cập kỳ lão dã, huyết khí ký suy, giới chi tại đắc”. (Người quân tử có ba điều răn: Khi còn trẻ khí huyết chưa định (thân thể chưa phát triển đủ), nên răn về sắc dục; tuổi tráng niên, khí huyết cương cường, nên răn về tranh đấu; về già, khí huyết đã suy, nên răn về tính THAM).
Thế giới loài người, do lòng Tham lam mà hận thù chồng cao chất ngất, có thể nói tánh tham lam là gốc sanh chiến tranh trên thế giới. Chính loài người đã chế ra súng đồng, tạo ra độc khí, hạm to…toàn là đi theo tiếng gọi của lòng tham để chiếm nước nầy, cướp nước nọ, đàn áp dân tộc khác.
Bởi thế, ngòi chiến tranh mới cháy, sự chém giết mới sanh ra, mà người đời kết án lòng tham lam là Thần chết, là quỉ vô thường của cuộc chiến tranh.
Xin đua ra một vài con số nhân mạng bị tử vong bởi do lòng tham của con người mà ra từ xưa đến nay, từ ngày lẫn đêm không bao giờ ngừng nghỉ (Thật là kinh khủng!):
Căn cứ theo “The War in The GUINNESS Book Of World 1998”:
- Đệ nhị Thế chiến (1939-1945), tổng số người chết được ước lượng là 56.4 triệu người. Đất nước Ba Lan chịu đau khổ nhiều nhất là 6.028.000 người chết so với dân số lúc đó là 35.1 triệu người, chiếm tỷ lệ 17.2%
- Chiến tranh đẫm máu nhất trong Lịch sử là cuộc nổi loạn của người Taiping chống lại Triều đình Qing (Trung quốc) giữa năm 1851-1864 con số tử vong được ước lượng chính xác nhất là 20 triệu người.
- Chiến tranh Việt Nam (1954-1975) binh sĩ Bắc Nam tử trận khoảng 1.320.000, bị thương khoảng 1.870.000 người. Riêng về thường dân vô tội thì lên đến con số 2 triệu người mất mạng. Trong khi quân đội Hoa Kỳ có 58.209 chết, 2.000 mất tích và 305.000 bị thương. Còn quân Trung cộng có 1.100 chết và 4.200 bị thương.
Chỉ thống kê một phần chiến tranh thôi, đã thấy: Thây nằm chật đất, máu chảy thành sông, xưong chất chồng như núi, đó chẳng qua là do lòng tham tàn của người không hiểu Đạo.
Còn người hiểu Đạo thì sao?
Ngày nào các Sư còn tranh nhau cất Chùa cao, đúc Phật lớn…
Ngày nào các Cha các Thầy, các đấng Lãnh đạo tinh thần Tôn Giáo còn tranh nhau tài sản, tiền muôn bạc tỷ để xây cất cơ sở vật chất cho đồ sộ cho nổi tiếng thế gian, nhằm thỏa mãn lòng tham lam vật dục.
Xin xét kỹ coi có bao nhiêu giọt mồ hôi, giọt nước mắt của dân lành đổ vào cho cái tiếng tăm cao xa, hùng vĩ đó!.
Xin hãy đọc những lời cảnh tỉnh sau đây của Đức Thầy để cùng nhau suy gẫm:
Tu mà ham cho được giàu sang,
Với quyền tước là tu dối thế.
Nhớ thuở trước vua Lương-Võ-Đế,
Tạo chùa-chiền khắp nước tu hành.
Đến chừng sau ngạ tử Đài-thành,
Phật bất cứu vì tâm còn ác.
Hay:
Bị tăng chúng quá ham chùa ngói,
Nên tởi khuyên khắp chốn cùng làng.
Phật nào ham tượng cốt phết vàng,
Mà tăng tạo hao tiền bá-tánh.
Và:
“Đúc Phật lớn, chùa cao bối rối,
Mà làm cho Phật Giáo suy đồi.”
(Giác Mê Tâm Kệ, Q.4)
Được biết, Lương Võ Đế là vua nhà Lương (502 - 556) thuộc Nam triều Trung Hoa, rất sùng bái đạo Phật, lập 82 ngôi chùa và mài miệt tu hành. Sau bị tướng nước Đông Ngụy là Hầu Cảnh vây ở Đài Thành đến chết vì đói, thọ 86 tuổi. Dầu Võ Đế cất nhiều chùa, tu hành và bố thí, nhưng Đức Đạt Ma Tổ sư vẫn cho là không có công đức. Đức Lục Tổ giải thích:“Lương võ Đế tâm không chánh, cất chùa, tu hành, bố thí, đãi chay để cầu phước, không thể cho là công đức được, công đức phải xuất phát tự lòng mình, trong tánh mình, chớ chẳng phải do bố thí, cất chùa, cố tạo hình thức bên ngoài, vì thế phước đức khác công đức”.
Đức Huỳnh Giáo Chủ khi đề cập về lòng Tham Hiểm đã giải thích rõ ràng trong quyển Khuyến Thiện:
“Ác thứ tám là lòng Tham Hiểm,
Muốn bao gồm của thế một mình.
Tham nhà cao, cửa rộng, thân vinh,
Tham vườn ruộng cò bay thẳng kiếng.
Thấy của người thèm khô nước miếng,
Tính làm sao lường gạt lấy đi.
Sẵn túi tham bất cứ chuyện gì,
Dầu xấu tốt cũng là dồn chứa.
Nhớ lời Phật khi xưa dạy sửa,
Của thế trần như mật dính dao.
Trẻ tham ăn kê miệng liếm vào,
Chừng đứt lưỡi mới là hối-hận.
Tham của tạm làm điều tàn-nhẫn,
Nhắm mắt rồi đâu có mang theo.”
Đoạn Sấm giảng nầy đã được ông Thiện Tâm chú giải như sau:
-Đến tội ác thứ tám là lòng tham lam độc ác, đây thuộc phần Ý nghiệp. Hành trạng của nó là lòng tham gian quá độ, muốn sao tóm hết tiền của trong thế gian về làm của mình. Nào lâu đài dinh thự, ăn mặc sung sướng, thân thế vang danh, tước quyền sang cả, nào tiền nhiều đất ruộng cò bay, thẳng cánh...
-Hễ thấy ai có nhiều tiền của thì lo tính mưu kế gạt lấy cho bằng được. Với lòng ham muốn ấy chẳng biết sao cho vừa, càng có của lại càng tham hơn, chẳng khác nào cái túi cao su, dồn vào bao nhiêu cũng chẳng thấy đầy. Người có lòng tham họ bất kể hành động ra sao, tài vật tốt hay xấu đều muốn dồn hết về cho mình.
-Để cảnh tỉnh số người ấy Đức Giáo Chủ nhắc lại lời của Đức Phật khi xưa:“Sắc đẹp với giàu sang, hai thứ ấy như mật dính trên lưỡi dao, những người tham ngọt kê lưỡi liếm, nên bị đứt. Kẻ nào ham danh lợi, tất phải chết vì lợi danh như thế đó”. Nay Đức Thầy cũng hằng cho biết, trong “Luận việc Tu hành”:
“Phú quí tạo đời thêm mệt xác,
Tham danh phế Đạo chí đâu yên”.
Hoặc là:
“Bá tánh say sưa mùi phú quí,
Sau nầy sẽ vướng cảnh đồ lao”.
(Ai người tri kỷ)
Nếu ai mãi tham đắm của thế, đến khi vương cảnh khổ mới hối hận ăn năn thì việc quá muộn màng.
-Đức Thầy ý thức cho bá gia được rõ, những tài vật trong thế gian đều là tạm giả, như hạt sương buổi sáng mau rã mau tan. Hiện giờ dầu ta có ham muốn, dùng đủ mưu gian kế độc giành lấy tiền của cho nhiều, nhưng đến khi tử thần gõ cửa cũng chẳng đem đặng vật nào, lại còn vương mang tội khổ để rồi phải luân chuyển báo đền.
Đặc biệt, trong bài “Luận về Tam Nghiệp” Đức Thầy đã giảng giải về tánh tham của con người như sau:
Tánh tham lam đã làm cho loài người phải chịu bao nhiêu thảm khổ: chiến tranh, cướp bóc, giết người ... tham danh, tham lợi, tham sắc, tham tài, tham quyền, tham thế ... Những sự ấy đã xô đẩy con người vào chẳng biết bao nhiêu cuộc chiến đấu ác-liệt, gây nên những thảm họa tày trời. Những tấn tuồng giặc giã, cướp của sát nhơn, những vụ hối-lộ, những vụ tranh thế giành quyền đã làm cho nhân-sanh điêu linh trong vòng tai nạn khốc hại. Cái tham ấy cũng đã làm cho con người đau buồn hận khổ, phải khóc đứng than ngồi, phải liều mình tự sát chỉ vì sự ham muốn không được thực hiện; người ta quyên sinh vì tình yêu, vì lợi quyền, vì thất trận.... Những cuộc cấu xé lẫn nhau, những cuộc nồi da xáo thịt, những tương sát tương tàn, những điều hung-hăng bạo-ác cũng do sự tham lam mà ra cả. Ngày giờ nào loài người diệt được tánh ham muốn của mình, ngày giờ ấy bớt được một phần lớn của sự khổ. Vả lại, ở đời phải có những lúc thăng trầm chìm nổi, có thì ta xài, không thì ta nhịn, can gì phải bày mưu tính kế chiếm đoạt của kẻ ngoài. Của là của chung trong thiên hạ, đời ta còn, nó còn; đời ta mất, nó mất; gương Thạch-Sùng – Vương-Khải há không để lại cho ta một bài học đích đáng lắm ru ? Thế nên, hãy nghĩ đến người cũng như mình nghĩ đến mình, hãy dẹp lòng vị kỷ tham-lam, lo vun trồng phước đức, bố thí kẻ nghèo hèn, rán công phu sám hối để có thể yên vui nơi miền Cực Lạc, lánh sự giả tạm ở cõi trần này.
Vì lòng tham vô cùng vô tận nên con người đã gây ra những tai hại:
a)- Kẻ bị lòng tham sai khiến, thường gây ra biết bao thảm khổ cho mình và mọi người: chiến tranh, cướp trộm, giết người, tương tàn tương sát. Ôm mối hận thù, bực tức dẫn đến liều mình tự sát.
b)- Hột giống oan oan tương báo, kéo dài từ kiếp nầy sang kiếp khác rồi kiếp khác nữa. Đức Thầy đã diễn tả về sự tai hại của lòng tham:
“Tham của tạm làm điều tàn nhẫn.
Nhắm mắt rồi đâu có mang theo.
Tham tiền tài thường vướng nạn eo.
Tham sắc đẹp nhà tan cửa nát.”
Tóm tắt, nếu tham ái, tham dục đòi hỏi những sự ham muốn về vật chất như thèm ăn, thèm ngủ, thèm ân ái …, là những khoái lạc về ngũ quan; thì con người còn ham muốn để được thỏa mãn những nhu cầu về tinh thần như ham chiếm đoạt, ham phô trương, ham quyền lực, ham lợi lộc.
Lòng ham muốn đắm mê không bao giờ biết ngừng, không bao giờ được thỏa mãn cả, như chiếc thùng không đáy. Để thỏa mãn dục vọng mà con người sanh ra vị kỷ, độc ác, làm hại, làm khổ người khác để mình được vui, được sung sướng. Vì lòng tham mà chúng ta không ngại sử dụng mọi thủ đoạn để đạt cho được mục đích, bất kể chuyện gì xảy đến cho người khác. Người tín đồ PGHH chúng ta nên thấy rõ vì không tu nên cõi đời trở thành một đấu trường mà nước mắt đổ như mưa rào, bể khổ dâng lên như nước thủy triều không bao giờ ngừng nghỉ.
Tham dục trần thế là vô hạn, nhưng chúng ta lại không có khả năng nhận ra chúng và tham dục không được thỏa mãn thường gây ra khổ đau phiền não cho mình và cho người. Khi chúng ta chỉ phần nào thỏa mãn tham dục, chúng ta luôn có khuynh hướng tiếp tục theo đuổi chúng cho đến khi được thỏa mãn, chính vì vậy mà chúng ta càng gây nên khổ đau cho mình và cho người. Ngay cả khi đã thỏa mãn tham dục, chúng ta cũng khổ đau.
Chúng ta chỉ nghiệm được chân hạnh phúc và an nhiên tự tại khi chúng ta có ít tham dục. Đây cũng là một trong những bước lớn đến bến bờ giải thoát của chúng ta.
Muốn diệt trừ lòng tham, nên tu hạnh Bố thí và lo công phu Sám hối. Bởi vì Tham tức là bệnh, do đó muốn trừ bệnh ấy nên quan sát rằng mọi pháp đều bất tịnh, nhứt là nên quán tưởng cái thân bất tịnh, cái hài cốt thúi nát nầy chỉ là tứ đại giai không, không có gì là trường tồn bất diệt.
Theo lời Đức Thầy dạy bảo thì người tu hành muốn diệt trừ lòng tham lam ích kỷ cần thi hành các phương cách như sau:
1)- An nhẫn trong sự nghèo túng, biết “tri túc thường lạc” để giữ lòng trong sạch và vun trồng cội phước.
“Thà nghèo thanh hơn giàu mà trược,
Lo vun trồng cội phước về sau”.
2)- Mở lòng thương yêu mọi người, mọi giới như mình thương mình, tùy phương tiện mà bố thí cho họ từ vật chất lẫn tinh thần:
“Muốn trừ tham phải liệu cách nào?
Phải bố thí diệt lòng ích kỷ”.
3)- Dùng tâm chánh niệm quán xét vạn vật trong thế gian, đến thân xác của ta cũng đều là vô thường, vô ngã, chẳng có vật chi để lòng mến tiếc:
“Tâm chánh niệm thường thường suy nghĩ,
Vật ở trần như bọt nước làn mây.
Thân ta còn rày đó mai đây,
Của ấy cũng khi tan khi hiệp”.
Chúng ta khi diệt trừ được lòng tham lam ích kỷ, tất tiêu diệt hột giống tội lỗi và khổ đau sanh tử. Phước đức càng lúc càng gia tăng và tâm hồn được tự tại an vui trên đường giải thoát.
Đức Phật dạy: “Tham dục chính là nguồn gốc của khổ đau. Mọi vật rồi sẽ thay đổi, vì thế không nên luyến ái hay vướng víu vào một thứ gì. Nên nhiếp tâm thanh tịnh tìm chân lý và đạt đến hạnh phúc vĩnh hằng.” Biết tri túc thiểu dục sẽ giúp chúng ta diệt trừ tham dục. Điều nầy có nghĩa là biết thỏa mãn với những điều kiện vật chất khả dĩ giúp cho chúng ta có đầy đủ sức khỏe để tu tập. Đây là phương cách hữu hiệu nhất để cắt đứt lưới tham dục, an ổn thân tâm và có nhiều thì giờ giúp đỡ kẻ khác.
Tóm lại, đã biết lòng tham là nguyên nhân của mọi sự đau khổ và sanh tử luân hồi: Người tu hành muốn diệt trừ nó phải biết sám hối tội căn “Tri túc thường lạc”. Thêm vào đó còn phải Từ bi bố thí và quán xét lý vô thường vô ngã, chắc chắn sẽ đặng thành công viên mãn, đạt quả Cực lạc hoặc Niết bàn, như lời Đức Thầy hằng kêu gọi:
“Thuyền từ kêu gọi ngóng trông,
Trông cho dân chúng bớt lòng tham ô.”
(Viếng làng Phú An, Châu Đốc)
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT!
TRƯƠNG VĂN THẠO